Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Phật Pháp nhiệm mầu lần thứ 23 Hành trình vào hang Bác Vật Lang




Phật Pháp nhiệm mầu lần thứ 23
Hành trình vào hang Bác Vật Lang là một hang nhỏ, còn 7 hang khác thật lớn nằm rãi rác khắp nơi,
Khi chúng ta quay trở lại cúng ở trụ điểm, trung tâm điểm chúng ta đi xuống chính giữa trung tâm trong hang khoảng 10 mét, qua khỏi tầng thứ 7 của Ngài Đa Bảo Như Lai thì chúng ta đế Cửa Đại Điện Kim Ngõa tức là Kim Tự Tháp Hoàng Cung của Phật Hoàng Trần An Di Lạc Vương Tôn Phật,
Nói chung là phong cảnh ở đây không thể nghĩ bàn rồi. ở Kim Tự Tháp đầu tiên có 3 cửa vào, cửa nào cũng có hỏi và xem nội lực công đức có vượt qua thử thách hay không?
1 – Câu hỏi thứ nhất: Có bao nhiêu chúng sanh trong Vũ Trụ nầy, những chúng sanh đó đang nghĩ gì?
Trã lời:
Phật chúng sinh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Trã lời xong câu nầy lạy 4 hướng, mỗi hướng 3 lạy xong bước tiếp vào cửa thứ 2 bên trái
2- Câu hỏi thứ hai: Tại sao phải?
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam bảo.
CHÍ TÂM => Chấm Ti, là chấm vào trung tâm điểm chính của mình cần làm, cần thực hành.
ĐẢNH LỄ => Để lãnh, lãnh cái gì? Lãnh cái An Lạc, lãnh những cái mình chú tâm cầu đến,
Nếu chúng ta không chú tâm vô một điểm cần làm, thì mọi chuyện sẽ không thành công, cho nên chúng ta phải dốc hết tư tưởng tâm niệm vào một công việc sẽ thành công, ( vạch rỏ đường đi cho bản thân mình ) Thân Tâm chúng ta đã hòa đồng với Hư Không, không còn ranh giới hạn lượng, không gian thời gian, trã lời ngắn gọn là:
THÂN ta vốn Hư không
KHI chết sánh đại đồng
TÁI sanh ta lại sống
THÂN Phật vốn Hư Không
Trã lời xong lạy 4 hướng mỗi hướng 3 lạy. xong bước tiếp qua cửa thứ 3 bên phải.
3- Câu hỏi thứ ba: tại sao phải?
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo Chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ Tát.
Trã lời vắn tắc như: Muốn lên làm bang chủ phải chịu nhục hình của chúng sanh
TA đương là thân Phật
ĐƯƠNG lai hạ sanh Phật
LÀ Phật diện kiến Phật
PHẬT đắc chính là Phật
Trã lời xong lạy 4 hướng mỗi hướng 3 lạy, xong bước tiếp về cửa chính giữa.
4- Câu hỏi thứ tư: tại sao phải?
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát.
Trã lời vắn tắc như: Quay về nương tựa để Báo Hiếu. Tam giới vô luân thất.
Tam là Tam Quy, Giới là ngũ giới. Vô là không, Luân là luân hồi, Thất là Cửu Huyền Thất Tổ
Người giữ được Tam Quy Ngũ Giới thì Cửu Huyền Thất Tổ không còn luân hồi.
( Nhất Nhơn hành Đạo Cửu Huyền thăng )
TAM quy ngũ giới thông
BẢO Tam thế giới đồng
BÁO Ấn quyền nhất thống
HIẾU Điền Vũ Trụ thông
Trã lời xong lạy 4 hướng, mỗi hướng 3 lạy, xong Tọa Thiền tụng thời Đại Bi và Thập chú xong đọc chú mở cửa sau Kim Tự Tháp. để bước qua điện Cửu Long Vương Pháp.
CỬU Long Vương Sắc Lệnh
TỪ Di Lạc chuyển tin
BI Từ trong mật kín
LỆNH Từ Phật Hoàng Lệnh
Đọc chú trên 3 lần xong bắt ấn mở cửa Núi (  ấn phá địa ngục ) quơ qua quơ lại 3 lần xong
Vỗ tay mở, vỗ tay mở, vỗ tay mở.
Dậm chân trái 6 cái chậm, 3 cái nhanh, Dâm chân phải 7 cái chậm
Xong bước tới phía trước sẽ thấy vực thẩm thật sâu, đừng sợ, cứ nhắm mắt bước tiếp nhất tâm niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ trở lại bằng phẳng, sẽ đến Cung Long Vương chính giữa.
1-      Tầng một Long Vương Pháp: Long Vương Pháp Chính
1* Hãy mô tả chử TU và ý nghĩa của sự mô tả?
Chử TU = T + U ,
T tượng trưng trí huệ, thanh tịnh, trong sáng thuộc về dương
U tượng trưng cho U ám, U muội, U tối thuộc về Âm
Hai chử nầy hợp lại cũng như âm dương hợp thành lưỡng dương nghi âm, cân bằng âm dương
Trong Đạo gọi là cân bằng Âm Dương, Ngoài Đời gọi là Cân bằng Pháp Luật
2 * TU là gì?
Tu là cân bằng Âm Dương
3* TU để Làm gì?
Tu là để giải quyết ân oán với nhau, nếu chúng ta vay thì chúng ta trã, nếu chúng ta cho vay thì chúng ta được ơn.
4 * Niệm Phật để làm gì?
Niệm Phật để Báo Hiếu
5 *Niệm Phật có thấy Tâm chết không?
Niệm Phật chỉ có thân chết, chứ Tâm không chết
6 *Đã biết được và làm gì bên thế giới vô hình?
Ta là vạn vật
Vạn vật chính là Ta
Ta chẳng khác gì vạn vật
Vạn Vật chẳng khác gì Ta
7 *Thầy của Chư Phật là ai?
Thầy của Chư Phật là Thiện Tri Thức
8 *Dục Huệ sanh Phàm, Dục nào thành Phật?
Dục bỏ mới thành Phật.
9 *Nhẫn vô tâm thì nên nhẫn, Nhẫn có tâm thì không nên, Lý do?
Nhẫn vô Tâm là nhẫn rồi quên luôn sự việc, nhẫn có tâm là nhớ sự việc để trã thù.
*Tầng một Long Vương Pháp: Long Vương Pháp Tả
Hãy nói lên 9 việc làm người đời coi là sai, nhưng có lợi cho chúng sanh
*Tầng một Long Vương Pháp: Long Vương Pháp Hữu
Hãy nói lên 9 việc làm người đời cho là phải, nhưng có hại đối với chúng sanh.
Khi trã lời xong tầng một Long Vương Pháp rồi lạy 4 hướng, mỗi hướng 9 lạy xong bước tiếp
2-      Tầng hai Long Vương Pháp : Long Vương Pháp Chính
1 *Lựa chọn minh sư như thế nào ?
Không còn chấp ngã, không còn phân biệt,
2 * Như thế nào là đạo dễ tu hành ?
Đói ăn mệt nghĩ an nhiên Tâm hồn
3 * Im hơi lặng tiếng có phải là tu hành không?
Chính là lúc tu hành rất cao độ, không phiền đến ai, đây là lúc gom năng lượng hòa đồng Vũ Trụ.
4 *Học Phật càng lâu, rời Phật càng xa' có đúng không ?
Không đúng, học Phật càng lâu, thì càng tinh tấn hơn, càng tu luyện nhiều hơn. Gần Phật nhiều hơn
5 * Hoa sen biểu thị cái gì trong Phật giáo ?
Chứng quả thành Phật để báo hiếu
6 * Trong xã hội tương lai còn có người xuất gia không ?
Trong xã hội tương lai không còn người xuất gia
7 * có tin ở sám hối hay không ?
Sám hối là thành quả công phu thu gom phước điền cao nhất trong các môn môn tu hành.
8 *thành Phật liền chịu không ?
Thành Phật ngay tức khắc rất tốt.
"Sớm về cõi Phật an thân,
        Kẻo kiếp phong trần dày gió dạn sương."
9 *Tâm ở đâu?
Tâm là vạn vật
Vạn vật chính là Tâm
Tâm chẳng khác gì vạn vật
Vạn Vật chẳng khác gì Tâm
*Tầng hai Long Vương Pháp : Long Vương Pháp Tả
Hãy nói lên những điều trái nghịch với 9 câu trên, mà có lợi cho chúng sanh
            *Tầng hai Long Vương Pháp : Long Vương Pháp Hữu
Hãy nói lên những điều thuận với 9 câu trên mà có hại cho chúng sanh
Khi trã lời xong tầng hai Long Vương Pháp rồi lạy 4 hướng, mỗi hướng 9 lạy xong bước tiếp
3-      Tầng Ba Long Vương Pháp : Long Vương Pháp Chính
1- Hỏi: Thật sự có vận mạng không? Con người có năng lực thao túng, sửa đổi số mạng chăng?
Ðáp: Quân-tử có pháp tạo mạng.
Mạng do ta lập, phước tự ta cầu.
Họa, phước không cửa,
Do mình tự vời.
Quả báo thiện, ác,
Như bóng theo hình.
2-Hỏi: Ðức Phật từ đâu mà có?
Ðáp: Ngài hãy tự hỏi Ngài từ đâu mà có, thì Phật ở chổ có của Ngài mà ra!
3- Hỏi : Đọc Kinh, Tụng Kinh, Niệm Chú có Linh Không?
Ðáp: Tâm thành thì linh nghiệm. Tâm chẳng chân thành thì niệm Chú không thể linh đặng. Nếu tâm Ngài mà thành khẩn, thì niệm Chú sẽ linh ứng.
Giận dữ sanh hoan hỷ,
Chết rồi đặng hồi sinh.
Lời này nếu hư giả,
Tức chư Phật nói dối.
4-Hỏi: Có nhiều người bị bệnh, nói rằng đó là do cha, ông xưa kia tạo nghiệp, bây giờ con cháu gánh chịu quả-báo. Vậy làm thế nào để tiêu trừ thứ nghiệp chướng này?
Ðáp: "Ai ăn nấy no, tội ai nấy lãnh."
Tội lỗi, nghiệp chướng của cha, Ngài không phải nhận chịu. Ngài chỉ cần đừng tiếp tục tạo nghiệp nữa là đủ:
Những việc mình làm từ xưa,
Xem như đã chết theo ngày hôm qua.
Giờ đây những việc mình làm,
Thuộc về đời mới kể từ hôm nay!
Trời cao không đày đọa kẻ biết hối cải lỗi lầm. Chỉ cần mình thành tâm sám-hối, sửa đổi để làm một con người mới là được!
5- Hỏi: Thế nào là Tam-Muội ?
Ðáp: Tam-Muội là tiếng Phạnớ samadhi, dịch sang tiếng Trung Hoa là Ðịnh - chánh Ðịnh, chánh thọ. Chánh Ðịnh thì khác với tà định; chánh thọ thì không phải như tà thọ.
chánh Ðịnh thì mình luôn "như như bất động, liễu liễu thường minh," lúc nào cũng sáng suốt, tỏ rõ.
Chánh thọ nghĩa là những điều mình tiếp thọ đều "chánh" cả, không phải do phan duyên mà có, cũng không phải do tham lam, hưởng thụ mà ra. Cái gì đáng được thọ nhận thì thọ nhận; cái gì không nên thọ nhận thì không thọ nhận.
Ðịnh có nghĩa là "bất động." Hễ bạn "động" thì không phải là "định," yên tĩnh mới được "định." Sách Ðại Học có dạy:
Có định rồi mới tĩnh,
Có tĩnh rồi mới an,
Có an rồi mới (tư) lự,
(tư) lự rồi mới đắc (thành).
Ðó là học thuyết của Ðức Khổng Tử về Ðịnh, Tĩnh, An, Lự, Ðắc.
6- Hỏi: Ðức Phật dùng thái độ gì khi đối diện với nhân sinh?
Ðáp: Từ, Bi, Hỷ, Xả.
7- Hỏi: Ðức Khổng-Tử có 3.000 học trò; trong số đó có 72 vị tinh thông lục nghệ. Trong xã hội hiện tại, phải như thế nào mới đáng gọi là "con người hoàn toàn?"
Ðáp:
"Có đức mới có phú quý thật,
Không đức thì là thứ nghèo hèn."
8- Hỏi: Người tại-gia cũng có thể trở thành "con người toàn thiện" sao?
Ðáp: Bất luận là tại-gia hay xuất-gia, ai ai cũng có thể tu hành thành bậc toàn thiện được cả!
9- Hỏi: Vì sao có lòng hoài nghi? Bởi chẳng có tín tâm! Bán tín bán nghi nên mới đâm ra ngờ vực
Ðáp:Tín vi Ðạo nguyên công đức mẫu.
Nghĩa là:
Ðức tin là nguồn đạo,
là mẹ của mọi công đức.
Tin tưởng ở trí huệ bản hữu của tất cả chúng sanh; đó tức là không hoài nghi.
Tụng rằng:
Ngày ngày luôn nói thật,
Chẳng sợ bị chửi, đánh,
Giết ta, ta chẳng sợ,
Giải thoát, nào quái ngại!
"Ngày ngày luôn nói thật." Mọi ngày đều nên nói lời chân thật, đừng dối trá.
"Chẳng sợ bị chửi, đánh." Hãy thẳng thắn mà nói lời chân thật. Dù bị đánh bị mắng, bạn vẫn cứ nói thật.
"Giết ta, ta chẳng sợ." Cho dù có kẻ giết bạn, bạn cũng đừng sợ sệt. Sợ gì chứ?
"Giải thoát, nào quái ngại!" Ðược chân chánh giải thoát thì có gì mà quái ngại, có gì mà phải sợ hãi chứ?
Tầng Ba Long Vương Pháp : Long Vương Pháp Tả
Hãy nói lên những điều trái nghịch với 9 câu trên, mà có lợi cho chúng sanh
            Tầng Ba Long Vương Pháp : Long Vương Pháp Hữu
Hãy nói lên những điều thuận với 9 câu trên mà có hại cho chúng sanh
Trã lời xong lạy 4 hướng, mỗi hướng 3 lạy, xong Tọa Thiền tụng thời Đại Bi và Thập chú xong đọc chú mở cửa sau Cửu Long Vương Pháp . để bước qua Đại Điện Kim Ngõa.
CỬU Long Vương Sắc Lệnh
TỪ Di Lạc chuyển tin
BI Từ trong mật kín
LỆNH Từ Phật Hoàng Lệnh
Đọc chú trên 3 lần xong bắt ấn mở cửa Núi (  ấn phá địa ngục ) quơ qua quơ lại 3 lần xong
Vỗ tay mở, vỗ tay mở, vỗ tay mở.
Dậm chân trái 6 cái chậm, 3 cái nhanh, Dâm chân phải 7 cái chậm
Xong bước tới phía trước sẽ thấy vực thẩm thật sâu, đừng sợ, cứ nhắm mắt bước tiếp nhất tâm niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ trở lại bằng phẳng, sẽ bước tới cửa Đại Điện Kim Ngõa.
Xung quanh đây là 4 vị Long Vương Đông Tây Nam Bắc, chính giữa là Ngai vàng trong Kim Tự Tháp, xung quanh là Chín Vị Long Vương Pháp Hoàng đang giữ Ngai Vàng của Ngài Phật Hoàng.
Thầy đã tiết lộ tới đây, quý vị đã đến được đây thì tự trã lời hay tự cầu Pháp gì tùy ý.
Qua câu chuyện có thật Thầy kể trên, Thầy cầu chúc cho quý vị tin tấn tu hành, tự tìm đường mà đi để  đạt được phẩm vị cao nhất, để trên thành Phật Đạo dưới độ sinh linh và tử linh.
Nam Mô A Di Đà Phật giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Phật Pháp nhiệm mầu lần thứ 22 Hành trình vào hang Bác Vật Lang



Khi chúng ta quay trở lại cúng ở trụ điểm, trung tâm điểm chúng ta đi xuống chính giữa trung tâm trong hang khoảng 10 mét, thì tới một hang rất rộng gọi là tầng thứ 7, đây là tầng cưới cùng, và cũng là tấng chứng Phật quả, ở đây thật là mầu nhiệm, sự mầu nhiệm ở đây không thể nói lên giấy bút được, ở đây chúng ta thấy tất cả các tầng của    Trụ, các thứ châu báu trong kinh A Di Đà đều chiếu diệu sáng choang, tất cả Như Lai đang Thuyết Pháp, đẹp như trong tranh Cực Lạc vậy, cai quản ở đây cũng có vị 84.000 tuổi thọ, và 18 vị Cao Tăng, đang làm việc như những hang mà chúng ta vừa đi qua, ở đây thờ NGÀI ĐA BẢO NHƯ LAI, ở đây chúng ta có thể quan sát thấy được bảy tầng Như Lai thuyết Pháp, để cho chúng ta lìa các sự sợ hãi các cõi. Đạt được Bi Trí Dũng có sức lực đại hùng, đại lực, đại bi của nhà Phật vượt qua các chướng ngại vật mà tiến tu trên con đường giải thoát mà thấy Đạo. ở đây chúng ta đủ Phước Đức vào cung điện Đại Kim Ngõa Phật Hoàng rồi. chúng ta đã qua tầng thứ 6 gồm các thành phần: Tham Sân Si Mạn Nghi …v…v, Tiền Danh Lợi Ruộng Vườn vàng Bạc, bảy thứ làm lung lạc tâm cang, tiền làm mất nghĩa nhân, ái tình oan nghiệt, nghĩa nhân chẳng còn. Mà chúng ta dùng chữ nhẫn đã vượt qua, và đã thu được tất cả tài bảo, từ Phước Báo Vô Hình cho đến Phước Báo hữu hình, cho nên chỉ có việc công phu cho tăng phước điền hồi hướng cho nhơn sinh và tử sinh trong 3 thế gian: Thượng Gian là Hư không, là kỉnh tất cả đấng bề trên trong Vạn Vật muôn loài, Trung Gian là kỉnh Tổ Tiên ông bà cha mẹ, và quyến thuộc họ hàng, Hạ gian là những kẽ bần cùng, vô liêm sỉ, thù địch với chúng ta, chuyên bươi móc, thọc mạch, đâm bị thóc, thọc bị gạo, vì những hạ gian nầy là những người đói khác về trí huệ, hiểu biết không có, nghèo về trí khôn, mà chúng ta thương họ dùng đủ Phương tiện để giáo hóa họ, nếu ai thấy sự thương yêu giúp đở những người nầy, thì khi đọc được bài Pháp nầy xin cho ý kiến chổ thấy, chổ thấy của lòng mình đem tình thương cải hóa đối với những kẻ nghịch tặc thì chúng ta đạt được Phật quả rồi, hãy mạnh dạng nói lên, để khi đọc giả đọc được và hiểu rằng chúng ta đang quan tâm đến họ, đang đem tình thương đến với họ, Thầy biết ai cũng xưng hùng xưng bá xưng thánh xưng thần, Thầy cũng làm y chang như vậy để xem xưng hùng xưng bá có thật hay không, nếu là thánh thần thứ thiệt rất thương yêu nhau, tìm những người cao hơn mình để học hỏi, còn dạng giả xưng bậy thì nghe người khác xưng danh lên sẽ đau buồn hộc máu mà chết, cho nên cổ xưa có câu:  Chim khôn hót tiếng dễ nghe, người khôn nói tiếng bầu trời mừng vui. Chúng ta đã đạt tới cảnh giới nầy, cũng như tột cùng đã thấy đạo, nên chúng phải giữ được vĩnh cửu trường tồn và có hoài, không ai có đủ tư cách phá chúng ta, không có ai đủ tư cách để làm phiền chúng ta thì chúng ta cũng phải nỗ lực công phu Thiền Định lễ lạy tạo dựng Phước điền chúng ta càng cao hơn, đã có Phước điền thì phước điền càng tăng lên gấp bội, đã có tiền thì làm ăn phát đạt đẻ ra tiền gấp bội, ở đây có thờ những sắc lệnh của các Chư vị Như Lai để Tăng Tài Bảo Và Bảo Vệ phước báo cho chúng ta là:
Tăng Trưởng Tài phước điền
Kính lạy chư vị Như lai khắp mười phương hướng trong ba thế gian,
Kính lạy đức Bảo kế như lai,
Kính lạy đức Vô cấu quang minh bảo tràng như lai,
Kính lạy đức Kim tràng quang như lai,
Kính lạy đức Bách kim quang tạng như lai,
Kính lạy đức Kim cái bảo tích như lai.
Kính lạy đức Kim hoa quang tràng như lai,
Kính lạy đức Đại đăng quang như lai,
Kính lạy đức Đại bảo tràng như lai,
Kính lạy đức Bất động như lai ở hướng đông,
Kính lạy đức Bảo tràng như lai ở hướng nam,
Kính lạy đức Vô lượng thọ như lai ở hướng tây,
Kính lạy đức Thiên cổ âm vương như lai ở hướng bắc,
Kính lạy đức Diệu tràng bồ tát,
Kính lạy đức Kim quang bồ tát,
Kính lạy đức Kim tạng bồ tát,
Kính lạy đức Thường đề bồ tát,
Kính lạy đức Pháp thượng bồ tát,
Kính lạy đức Thiện an bồ tát.

Nam mô, Sri ma ha đê vi, tát da tha, pa ri pua na cha rê, Sa măn ta đar sa ni, ma ha vi ha ra ga tê, sa man ta, pi ta ma ma ti, ma ha ka ri da, prát vít tha pi ni, sar văn tơ, a sa măn tan, su pra ti pu rê, a da na đa ma ta, ma ha ba gê na, ma ha mai tri, u pa săm hê tê, ma hắt lê sa, su sam gri hơ tê, a nu pu la na, soa ha.
Hàng ngày chúng ta tạo được Phước Điền rồi, chúng ta nhớ thắp nhang ( hương ) lạy Chư Vị Như Lai và Bồ Tát, rồi đọc chú 3 lần, để Save ( gởi Công đức vào sổ tiết kiệm ) khi chúng ta cần lời nguyện của chúng ta sẽ có ứng chứng, mọi việc làm sinh sống của chúng ta được trôi chảy, vì không có ai đủ Phước Điền để làm phiền tới chúng ta. Nếu là tôn giáo khác hay không tôn giáo không có đốt nhang, thì ra ngoài trời vái lạy cũng được. nếu ai ngang ngược hết phước rồi cầu xin ai cũng khó.
Có một lần Thầy đi đến khu vườn lạ Thiên sứ ở đức lập long an, Thầy thấy người ta ngồi thiền cầu giải bệnh, nên Thầy đến đây xem và nghiên cứu, sẳn diệp thăm người quen ở sát khu vườn Thiên Sứ nầy,
Thầy đang đứng nhìn xem, và định Tâm xem có những gì lạ ở đây, thì có một vị đến vỗ vai nói, sau chú không ngồi xuống mà cứu đi vòng vòng hoài vậy, Thầy quay lại hỏi, chổ nầy của chú hả?, vị ấy trã lời không phải, vị ấy tới ngồi trị bệnh, cứ ngồi hoài nay đã hai tuần rồi, Thầy hỏi tiếp, chú thấy thế nào có khỏe không? nhìn tướng chú là dân đại gia giàu có lắm, với lại tiền kiếp chú là đạo công giáo, chú cũng tin mấy thứ nầy sao? Vị ấy mới nói tiếp, Hèn chi từ hai mươi tuổi, tôi ngủ năm mơ thấy quỷ rượt tôi chạy, xong có một người từ trên cao đưa cho tôi cây thánh giá gọi Philipphe hãy cầm lấy mà trừ quỷ, nhưng giựt mình dậy không thấy gì hết, từ đó đến giờ, tâm tôi không an được, nhà tôi thờ ông bà và có một tượng Phật nhỏ, tôi đọc chú hoài không bao giờ nhớ, Thầy mới hỏi tiếp, vậy chú họ tên gì? Vị ấy trã lời tên tôi là Lê Phát Đạt, Thầy mới nói: vậy chú lấy tên tiền kiếp của chú rồi, chú là một đại gia tỷ phú, tiền vô số kể, tên cúng cơm của chú là Lê Nhứt Sỹ, Vợ là bà Huỳnh Thị Tài, các con gồm có: Lê Thị Bính (mẹ của Nam Phương), Lê Phát An, Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân… đều là những đại điền chủ có rất nhiều đất đai ở Tân An, Đức Hòa, Đức Huệ và Đồng Tháp Mười, chú nên đi tìm những thân nhân có tên đó đi, khi nào có duyên gặp gọi điện cho Thầy, Thầy sẽ nói cho. Thế là Thầy và vị ấy chia tay lâu lâu chú ấy gọi điện hỏi thăm và nói tình hình tìm gia tộc, Thầy chỉ cho vị ấy trì chú niệm Phật. gần một năm sau vị ấy có gọi điện cho Thầy nói rằng chú ấy qua Pháp ở để đoàn tụ gia đình ở Lion, nhờ sự giúp đở của Thầy nói lên tiền kiếp, nên vị ấy tìm được thân quyến, và làm ăn phát tài lên đã mở rất nhiều nhà hàng ở Pháp và các nước.
NHÂN duyên tiền kiếp trở về đây
DUYÊN xưa phước đức rất cao dầy
TIỀN định duyên xưa Thầy mới thấy
KIẾP về an lạc Nhất Sỹ  đây
Qua câu chuyện có thật Thầy kể trên, Thầy cầu chúc cho quý vị tin tấn tu hành đạt được phẩm vị cao nhất, để trên thành Phật Đạo dưới độ sinh linh và tử linh.
Nam Mô A Di Đà Phật giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Phật Pháp nhiệm mầu lần thứ 21 Hành trình vào hang Bác Vật Lang



Khi chúng ta quay trở lại cúng ở trụ điểm, trung tâm điểm chúng ta đi xuống chính giữa trung tâm trong hang khoảng 10 mét, thì tới một hang rất rộng gọi là tầng thứ 6, ở đây thật là mầu nhiệm, sự mầu nhiệm ở đây không thể nói lên giấy bút được, ở đây chúng ta thấy tất cả các tầng của    Trụ, các thứ châu báu trong kinh A Di Đà đều chiếu diệu sáng choang, tất cả Như Lai đang Thuyết Pháp, đẹp như trong tranh Cực Lạc vậy, cai quản ở đây cũng có vị 84.000 tuổi thọ, và 18 vị Cao Tăng, đang làm việc như những hang mà chúng ta vừa đi qua, ở đây thờ NGÀI BẢO THẮNG NHƯ LAI, ở đây chúng ta có thể quan sát thấy được bảy tầng Như Lai thuyết Pháp, để cho chúng ta lìa các sự sợ hãi các cõi. Đạt được Bi Trí Dũng có sức lực đại hùng, đại lực, đại bi của nhà Phật vượt qua các chướng ngại vật mà tiến tu trên con đường giải thoát mà thấy Đạo.
Nam mô Bảo Thắng Như Lai. Nghe danh của Đức Bảo Thắng Như Lai, hay dứt trừ được lửa nghiệp phiền não sanh tử, liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng.
Ở đây thờ tất cả là 43 Ấn sắc lệnh quản lý 84.000 pháp môn kể cả các Tôn Giáo trong Vũ Trụ, còn gọi là 84.000 lổ chân lông chân tóc, nhưng chung quy lại chỉ còn một chữ Nhẫn, Có khi nhẫn để khinh người trọng ta. Ý nói khinh người là để cho người đó đừng tạo nghiệp khi mình nhẫn, vì khinh là nhẹ, khi chuyện qua rồi người đó sẽ biết ơn mình và trọng mình, vì nếu hai bên xô xác nhau thì chẳng ra gì nữa, thắng thì khám lớn, thua nhà thương hay nghĩa địa, còn người nói tới mình, mà mình không trã lời nhìn rồi bỏ đi chổ khác, thì người đó không còn giá trị gì nữa rồi, Trời Đất còn tránh né người đó, cũng không chứa người đó sau khi mãn số. Nhẫn không phải là thua thiệt, mà là gom sức mạnh tiềm năng của Vũ Trụ, hút hết bao nhiêu công đức của người phá mình, người đã tu luyện hay còn phước đức của đời trước để lại, đang hưởng sự giàu sang, ỷ thế giàu có mà chửi hay phá mình, thì công đức đó mình sẽ hút hết qua bên mình nếu mình nhẫn được. cho nên sự im lặng là một sức mạnh không thể nghĩ bàn của Vũ Trụ,
Nói đến 43 Ấn Sắc lệnh nầy đều nằm trong: Linh Tàng Bảo Thắng Như Lai, có sức lực điều khiển không thể nghĩ bàn của Vũ Trụ theo ý nghĩ của người sử dụng nó, còn hơn thôi miên, vì thôi miên chỉ có được một vật, còn Linh Tàng Bảo Thắng Như Lai nầy ví như Đất Nước vậy, các sông ngòi đều chảy vào biển, tất cả sinh linh vạn vật đều gom về đất. Nếu ai nhẫn được như đất và nước thì người nầy đã hòa đồng được Vũ Trụ rồi, gọi là đạt được Đạo, Trong Phật pháp thì thấy được Phật Tánh còn gọi là Thành Phật. còn các Tôn Giáo khác gọi đạt được những gì thì tùy ý,
Muốn đạt được cảnh giới nầy chúng ta phải lạy qua Vạn Phật, và thông hiểu kinh Lương Hoàng Sám hoặc Từ Bi Thủy Sám, vì gây nghiệp là do thân bằng quyến thuộc gây cho chúng ta, vì thân bằng quyến thuộc hiểu ta nhất, khi ta sám hối cho các cõi trong kinh Lương Hoàng Sám là ta được 7 phần công đức, người được ta sám hối chỉ được 3 phần. nên tiếng nói của chúng ta có giá trị, vì công đức chúng ta có nhiều, cũng như đa kim ngân phá luật lệ vậy, cõi vô hình thì dùng công đức, cõi hữu hình thì dùng tiền.
Có một lần Thầy về Sài gòn, có một vị Phật Tử nhờ Thầy cứu dùm chứng bệnh nghiệp anh của Phật Tử nầy, nay ba mươi mấy năm rồi bị hành căn, đi bệnh viện Tâm Thần về cũng y chang, không hết căn bệnh, đất bán dần để đi chữa bệnh, đi khắp hết đất nước, nhưng cuối cùng cũng như cũ, vẫn xiềng lại, vì về đêm người bệnh căn nầy hay đi, dùng dao chém tùm lum, gia đình nào mà có một người như vậy rồi mới biết cái cảnh nhà tan cửa nát thế nào? Cuối cùng đã bán hết đất, chỉ còn một lõm cái nhà nhỏ, để cột người bệnh nầy, ai đi qua cho một tô cơm, hay khoai gì đó, có gì cho nấy.
Thầy hỏi vị nầy ở đâu? Vị Phật tử trã lời ở Cà Mau, vậy chúng ta đi bằng phương tiện gì về đó, Thầy cũng muốn xem cảnh tượng ở Nhơn thế như thế nào? Và những căn bệnh của cõi Vô hình như thế nào? Thầy ghi địa chỉ xong, Thầy dùng honda đi về dưới xem trước, nhưng không cho ngày đi với vị Phật Tử nầy, về đến nơi, khi nhìn thấy cảnh tượng, Thầy ngồi xuống uống nước xong Tọa Thiền, bà con lối xóm tới xem, Thầy mới nhờ quý vị làng xóm cho mượn Bình Tách ly, dĩa, chén và gạo muối, còn các thứ khác, Thầy mua đem về chuẩn bị cúng, Thầy đọc Kinh Lương Hoàng Sám Cho người bệnh căn nầy nghe, khi đọc gần hết cuốn nầy, vị nầy la lên ầm ầm và khóc nức nở, vì phần âm trong người vị nầy là một bá hộ giàu có của lục tỉnh ở miền nam hồi xưa, vì nghiệp giàu có mà hành hạ người dưới quyền, đầy tớ và những người khác, cho nên bệnh căn trã quả.
Thầy mới hỏi vị ấy, quê hương ở đâu? Có thân quyến ở đâu? Tên gì? Chỉ cho rõ, Thầy sẽ đi tìm cho. Vị bệnh căn nầy nói tại chú thân xác nầy là thợ hồ trước kia, đi đến Bạc liêu làm đã đi vào vùng khu mộ của người tàu, trúng nơi mộ khống mà tôi chôn của cải của gia đình, nên tôi sợ, tôi hành vị nầy bệnh suốt ba mươi mấy năm rồi, Thầy hỏi tiếp vậy ngươi nhập ở đây, ai trong coi của cải, vị ấy nói ở đó có hai nữ đồng trinh chôn giử của, vậy hai vị nữ đó Họ Tên gì? Để Thầy cầu siêu luôn thể, vị vong nầy nói: Thầy có đến đó rồi với một người nữ ở sài gòn, gần chùa Phụng Sơn, người nữ dùng Lỗ Bang nên tôi không dám lên gặp Thầy, Thầy đã tìm chú lâu rồi, bữa nay mới gặp. vậy thì chúng ta cũng có duyên để Thầy siêu độ cho chú đi đào thai, chứ không vãng sanh được, trã lại xác cho người ta, đừng hành xác người ta nữa, tự nhiên có xe Auto chạy đến trước cửa, ai cũng ngỡ ngàng, thì ra một chiếc BMW bóng loáng quen thuộc, đó là những vị lạy Sám Hối trước đài Quan Thế Âm ở Chùa Phước Hưng xã Long Thiền huyện Nhơn Trạch, Tỉnh Đồng Nai. Tất cả mọi người mừng rang lên trong thế giới vô hình, xưng con xưng cháu rồi ôm khóc bù lu, bù loa, một hồi thì vong kia xuất ra, người bệnh xĩu, Thầy đổ sâm cho uống và cầu hồn của vị bệnh nhập trở lại, trã lại nguyên bổn, Thầy cùng quý vị ở đây ba ngày, thầy gọi thí chủ ở sài gòn về, và chủ xe BMW là con rể của vong nầy nên cho một số tiền chuộc đất lại và cất nhà cho vị bệnh đó. Thầy cùng quý vị nầy trở về Bạc Liêu và đi thăm viếng mộ để cầu siêu cho hai nữ nô tỳ giữ của. hai vị nầy chưa đào thai hay siêu độ được, vì chưa đủ phước nên còn lãng vãng bên ngoài chưa đăng ký vô cửa quan địa phủ, hai vị nầy chờ tu đủ phước rồi mới vào đăng ký sẽ đào thai tốt hơn. Cho nên quý vị nầy theo Thầy tu mà quậy Thầy hoài, nếu Thầy không vững Tâm là chết với mấy vị nầy luôn.
Mấy tháng sau, vị bệnh đã xây nhà xong, gọi điện cho Thầy và quý vị Thí Chủ của vong Bá Hộ đến ăn mừng và lập đàn chẩn tế siêu độ. Trong niềm vui nầy, ai nấy đều hoan hỷ chia sẽ cho nhau từng chút nụ cười, như không muốn rời xa nhau nữa vậy.
HAI mốt ngàn năm Nam Việt sử
NGÀN năm nhàn hạ đã có dư
MỘT trăm năm Hoa Đạo mới khứ
BA Cõi tam thiên thấy Chân Như
Qua câu chuyện có thật Thầy kể trên, Thầy cầu chúc cho quý vị tin tấn tu hành đạt được phẩm vị cao nhất, để trên thành Phật Đạo dưới độ sinh linh và tử linh.
Nam Mô A Di Đà Phật giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

Phật Pháp nhiệm mầu lần thứ 20 Hành trình vào hang Bác Vật Lang



Phật Pháp nhiệm mầu lần thứ 20
Hành trình vào hang Bác Vật Lang
Khi chúng ta quay trở lại cúng ở trụ điểm, trung tâm điểm chúng ta đi xuống chính giữa trung tâm trong hang khoảng 10 mét, thì tới một hang rất rộng gọi là tầng thứ 5, ở đây thật là mầu nhiệm, sự mầu nhiệm ở đây không thể nói lên giấy bút được, ở đây chúng ta thấy tất cả các tầng của    Trụ, các thứ châu báu trong kinh A Di Đà đều chiếu diệu sáng choang, tất cả Như Lai đang Thuyết Pháp, đẹp như trong tranh Cực Lạc vậy, cai quản ở đây cũng có vị 84.000 tuổi thọ, và 18 vị Cao Tăng, đang làm việc như những hang mà chúng ta vừa đi qua, ở đây thờ NGÀI DIỆU SẮC THÂN NHƯ LAI, ở đây chúng ta có thể quan sát thấy được bảy tầng Như Lai thuyết Pháp, để cho chúng ta lìa các sự sợ hãi các cõi. Đạt được Bi Trí Dũng có sức lực đại hùng, đại lực, đại bi của nhà Phật vượt qua các chướng ngại vật mà tiến tu trên con đường giải thoát mà thấy Đạo.
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nghe danh của Đức Diệu Sắc Thân Như Lai, hay đặng cái thân tướng hảo đoan nghiêm bực nhứt giữa tam giới, tức kinh Pháp Hoa bảo:"Vi diệu tịnh pháp thân, cụ túc tam thập nhị" Nói lên cách thức tu luyện công đức để đạt được kim thân với đầy đủ phước đức của trời người với hiện lên 32 sắc hảo tướng trang nghiêm, áp dụng luôn cho các sinh vật khác (chúng sanh khác) trong và ngoài trái đất. Phạn ngữ Abhidhamma có nghĩa là những giáo lý cao siêu, vi diệu, thù thắng, vượt trên tất cả, vô thượng (không có gì cao hơn). Vi Diệu Pháp là đề cập đến giáo lý tinh hoa của Ðức Phật
Thế giới hay vũ trụ dù rộng lớn bao nhiêu cũng không ngoài 4 thứ: Sắc (vật chất), Tâm (Tâm Vương), Tâm Sở (Các trạng thái thuộc tâm như Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành uẩn) và Phi Danh Sắc (Niết Bàn).
Vi Diệu Pháp chia và giảng chi tiết về 4 đối tượng này một cách sâu sắc với phương châm "Không có cái tôi". Vi Diệu Pháp là mộn học không đề cập đến "cái ngã". Như các định luật vật lý, hóa học, sinh học...xảy ra độc lập với "cái ngã" thì Vi Diệu Pháp nghiên cứu về các khía cạnh vật chất (Sắc Uẩn) giống như vậy. Còn về Tâm và Tâm Sở, Vi Diệu Pháp có vẻ giống Tâm lý học nhưng hoàn toàn khác với tâm lý học ở nhiều khía cạnh. Tâm lý học phục vụ cho "sự mưu cầu" lợi ích thì Vi Diêu Pháp phục vụ cho việc "mưu cầu lợi ích" và "vượt lên mưu cầu lợi ích".
Ở đây chúng ta nhìn thấy được các pháp thuật tu hành để đạt được diệu sắc thân biến hiện, trong các cõi, các nơi và tùy lúc, và có cách hóa giải các nan nghiệp oan gia bằng cách tu luyện để đạt tâm vương tức là Tâm Phật, chúng ta có thể đi ngược lại quá khứ và về vị lại những chuyện xãy ra sắp tới, những sắc lệnh được thờ nơi đây đều có sự khắc khe của người thọ dụng, không được tùy tiện truyền thụ. Những chuyện trong phim của Ngài Đạt Ma sư tổ sử dụng, như dùng cọng cỏ đi trên nước, dùng chiếc giày để hóa thân khi chôn cất, dùng hạt hạnh để biến hóa thân, thì ở đây chỉ là một phần nhỏ,
Còn những chuyện siêu phàm không thể nghĩ bàn, không thể có bút mực nào tả cho hết.
Mổi vật đều có một chử cái và một câu thần chú, cách làm và cách giải đều có ghi rỏ.
Như cuốn Thiên Bửu kinh có 1000 thế yếm và truyệt mạng, cũng như lập đàn cúng binh thế trận, như lấy đậu, gạo, hay bất cứ vật gì cũng đều làm binh khiển tướng được hết.
Và cuốn Thông Thiên Bửu Kinh là cuốn để hóa giải tất cả những ách nạn oan gia của Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Quý vị thường thấy các vị ở núi hay dùng những phần nhỏ nhoi và không có ấn sắc lệnh mà vẩn hiệu nghiệm đôi phần, Như yếm cho một cơ quan phá sản, hàng quán tiệm ế ẩm, yếm người bệnh, thư người chết, yếm cho trùng tang, yếm cho thắt cổ, uống thuốc tự vận, nhảy sông tự vận, ôi thôi. Lu xu bu về những chuyện nầy. Thời bây giờ còn hiện đại hơn, các bác sỉ bỏ thuốc mê, thuốc ngủ, thuốc kích dục, ete gây mê, gây nghiện, hay tung tin đồn nhảm bêu xấu người, vì biết người ta không chấp lời thị phi tiểu nhơn làm, nếu làm quá mức giới hạn chịu đựng của người thì người ta sẽ trã lại một lời nguyền thì những gia đình tiểu nhơn nầy bị liên lụy trùng tang liên táng, tán gia bại sản tới 7 đời, ôi thật là thế giới hổn độn của tham sân si của con người phát khởi.
Ở đây có thờ 18 sắc lệnh lớn nhỏ, đặc biệt nhất là sắc lệnh Linh Tàng Bảo Lộc( Lục ), ai được sắc lệnh nầy, và tu luyện thông thạo thần chú đủ số biến số ngày, có khả năng biến hiện khắp nơi, có thể biến hóa những vật dụng bình thường theo ý muốn. gọi là ba mươi hai tưởng hảo hiện ra, lời nói của vị tu luyện thành công thì linh ứng vô cùng, còn hơn Lỗ Ban Sát nữa.
Hữu duyên Thầy đã sử dụng qua một lần, một chiêu thuật đơn giản ai cũng làm được, có một lần Thầy đi lên Chùa Vĩnh Tràng ở Mỷ Tho Tiền Giang, đúng vào ngày cúng Trai Tăng nên khách đông lắm, lúc nầy hai hàng Phật Tử đứng làm hàng rào đón Tăng đoàn, Thầy đứng xem, vì Thầy đi tham quan, Thầy mặt đồ bình thường nên không ai để ý, xung quanh bên ngoài toàn là ăn xin, từ trẽ đến già đều có, đông quá trời, khi nghe tiếng xin ăn Thầy thấy đau buồn cho xã hội chúng ta sao còn chuyện nầy nhiều quá, việc xóa đói giảm nghèo đã xóa, sao nay lại càng nhiều hơn, quý vị ăn xin nầy cứ đến các vị Phật Tử đứng xếp hàng mà xin, bất kể Tăng Ni hay ai đi qua họ cũng A Di Đà Phật rồi xin, có một cụ già đến nắm tay một cô tuổi trung niên, cô ơi cho già nầy xin vài chục ngàn mua gạo, thì cô ta trã lời với cụ già với giọng gắt gao, Bà có biết hôm nay là ngày gì không? là ngày cúng trai Tăng đó, không phải cúng cho bà, Thầy thấy cảnh tượng nầy nên Thầy đến kéo Cụ Già ra, cô ta la luôn Thầy, trai tráng như vầy mà để bà già đi ăn xin hả, không biết nhục sao? Của đâu mà bố thí cho hết nguyên làng ăn xin nầy? Thầy mới nói Cụ đứng đây chờ con một chút, Thầy đi ra mua một tấm bảng và cây viết lông, Thầy viết lên bảng là: Tôi là Xin Ăn khắp năm châu, nếu ai muốn giàu sang, muốn khá lên, cải số mệnh thì tới xin tôi, Chú Ý: Tôi không nhận tiền đưa trơ trẽn, mà bỏ vô bao thư đàng hoàng, xin tôi mới cho lộc. Tất cả mọi người ai nhìn tấm bảng cũng cười, nhất là đồng nghiệp ăn xin, ha ha ha
Một hồi lâu có vị Tăng trong Chùa ra hỏi Thầy ở đâu mà tới đây xin, biết ở đây toàn là ăn xin quen biết không? Thầy mới nói: Ha Ha Chú nên về nhà rút rơm cho bò ăn đi, và chăm sóc Bà Nội Chú, Bà Nội chú dạo nầy khổ lắm, lớn tuổi rồi không ai nuôi dưỡng, phải đi xin gạo hàng xóm để kiếm sống qua ngày, từ khi ba mẹ chú mất chú còn nhỏ được gởi vào chùa cho ăn học, cho đến nay mà không nhớ quê hương xứ sở, chỉ có Thầy Trụ Trì mới biết chuyện nầy thôi, thế là vị Thầy nầy la lên om sòm, ăn xin mà nói lung tung, kêu bảo vệ đuổi Thầy và Cụ Già ra khỏi cổng, Thầy và Cụ ra trước cổng cũng ngồi đó chờ vị trụ trì, thì vị Thầy đó vô bên trong chùa còn nói lảm nhảm sao tới tai của vị Trụ Trì, Vị Trụ Trì hiểu rỏ sự tình, vị ấy hỏi, thế hai người ăn xin đó đâu rồi? Phật Tử chỉ ra ngoài cổng, thế là vị Trụ Trì đi ra thấy vậy hỏi, chú ở đâu mà tới đây xin, sao biết chuyện của chúng tôi trong Chùa, Thầy nhìn vị Trụ Trì và nói, muốn biết ta ở đâu? Thì hãy bỏ tờ 500.000 xanh vào bao thư đi, và ghi cho ta biết pháp danh rồi ta sẽ trã lời. Vị Trụ Trì nầy cũng có tiền nên cũng tò mò xem sự việc thế nào? Khi vị nầy đưa bao thơ xong, Thầy lấy viết ghi một bài thơ và mấy câu giải thích, Thầy đưa cho vị Trụ Trì , vị nầy xem xong lật đật A Di Đà Phật lia lịa, mời Thầy và Cụ Già vào Chùa, và bắt vị Tăng vừa rồi vào phòng riêng gặp Thầy và Cụ Già sám hối, vì Cụ Già nầy chính là Bà Nội của vị Tăng nầy, thế là Phật Tử bắt chước Vị Trụ trì, bỏ tiền vào bao thư ghi tên tuổi pháp danh, đưa cho Thầy, xem Thầy nói thế nào? Cứ như vậy tấp nập hết người nầy đến người kia, mà cô rầy la cụ già hồi nãy lại cho tiền nhiều hơn mọi người nữa chứ, gần một buổi mà Thầy có gần 30 triệu trong tay để xây căn nhà tình thương cho Cụ già nầy rồi, đúng là nhiệm mầu, Thầy đã dùng một chiêu sách nhỏ của Linh Tàng Bảo Lục, còn gọi là hiểu được ý nghĩ và hành động của người khác, nên nói ra ai cũng giựt mình, chỉ được phép cứu người thôi, chứ làm tư lợi riêng cho mình thì lảnh hậu quả không lường được. Thầy tiết lộ cho quý vị biết bài thơ Thầy viết cho Vị Trụ Trì là:
NHƯ Lai xuất thế giáng lâm trần
GIỮA miền cực lạc xuống thần dân
ĐỐNG đổ tanh hôi người sinh tấn
RÁC rồi cũng sạch Phật hiện thân
Còn tên của vị ấy Thầy không tiết lộ, vì giữ bí mật nhà Thiền chút xíu.
Qua câu chuyện có thật Thầy kể trên, Thầy cầu chúc cho quý vị tin tấn tu hành đạt được phẩm vị cao nhất, để trên thành Phật Đạo dưới độ sinh linh và tử linh.
Nam Mô A Di Đà Phật giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )

Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

Phật Pháp nhiệm mầu lần thứ 19 Hành trình vào hang Bác Vật Lang



Khi chúng ta quay trở lại cúng ở trụ điểm, trung tâm điểm chúng ta đi xuống chính giữa trung tâm trong hang khoảng 10 mét, thì tới một hang rất rộng gọi là tầng thứ 4, ở đây thật là mầu nhiệm, sự mầu nhiệm ở đây không thể nói lên giấy bút được, ở đây chúng ta thấy tất cả các tầng của    Trụ, các thứ châu báu trong kinh A Di Đà đều chiếu diệu sáng choang, tất cả Như Lai đang Thuyết Pháp, đẹp như trong tranh Cực Lạc vậy, cai quản ở đây cũng có vị 84.000 tuổi thọ, và 18 vị Cao Tăng, đang làm việc như những hang mà chúng ta vừa đi qua, ở đây thờ NGÀI QUẢNG BÁC THÂN NHƯ LAI, ở đây chúng ta có thể quan sát thấy được bảy tầng Như Lai thuyết Pháp, để cho chúng ta lìa các sự sợ hãi các cõi. Đạt được Bi Trí Dũng có sức lực đại hùng, đại lực, đại bi của nhà Phật vượt qua các chướng ngại vật mà tiến tu trên con đường giải thoát mà thấy Đạo.
Nam Mô Quảng Bác Thân Như Lai
Nghe danh Đức Quảng Bác Thân Như Lai, thì đặng tiêu được lửa nghiệp, cuống họng mở thông mà đặng cái thân thanh lương vô ngại.
QUẢNG BÁC THÂN NHƯ LAI
Quảng => Quảng Đại rộng lớn bao trùm Vũ Trụ
Bác = Bác – C = Bá => là nhiều vô số kể, hằng hà sa sự rộng lớn.
Bác – B = Ác => sự ác độc của xã hội nhơn loại làm những việc trái lương tâm, dẫn đến nhơn sinh đến đường cùng bế tắc.
Thân => đây là thân mệnh của mổi sinh linh, dùng sự đấu tranh sinh tồn và tiến lên con đường học Đạo
Khi chúng ta nhắc đến danh hiệu Ngài Quảng Bác Thân Như Lai như nhắc lại, đọc lại, tụng lại một câu thần chú để tiêu trừ căn nghiệp ác của chúng ta, vì chúng ta có một thân, có ba hồn, bảy vía, chín vía, sẽ định lại không làm điều ác khởi trong tâm chúng ta, cũng như tâm chúng sanh.
Thí dụ: Đây là thí dụ thực tế, chính bản thân Thầy đã trãi qua, từ cuộc sống hiện tại đời thường cho đến nơi Tam Bảo, một nhơn sinh cũng có đủ, các thứ cái ác lẫn cái thiện, ai cũng làm được điều nầy. chúng ta đang tiến hóa lên cấp độ hiểu biết sinh tồn cao hơn, nếu ai có duyên thì liễu ngộ một câu kinh hay một lời nói của một vị nhơn sinh hay vạn vật thì chúng ta có thể thành chánh đẳng chánh giác, luôn làm điều thiện, xóa bỏ được điều ác, tập tánh nhẫn ôn hòa được thì chúng ta đã đạt được và hòa đồng với ngài: Quảng Bác Thân Như Lai, nếu chúng ta giữ tâm niệm ở cõi Ta Bà nầy, không muốn tái sanh và tiến hóa đi cõi khác cao hơn thì chuyên làm chuyện ác, mà chưa chắc được như ước nguyện vì những chuyện ác nầy sẽ theo nghiệp nhơn quả mà trã, chúng ta muốn làm người mà tạo nhiều ác nghiệp sẽ tái sanh làm thú ( súc sanh ) ngạ quỷ, địa ngục khổ sở trăm bề. trên Google một người chúng ta có ba, bốn nick, Gmail, không hình, không thật tên, không địa chỉ chính xác, thì chúng ta cũng tạo một Tâm Ác xão trá lương tâm rồi, dù có tụng muôn kinh vạn điển, dù suốt đời Niệm Phật cũng không xóa nỗi những vết nầy.
Trên Google nầy Thầy đã dùng người thật việc thật, lấy thân mạng của Ngài Quảng Bác Thân Như Lai để xóa những cái ác, hay nói lên dùng ác trị ác, thì có nhiều nick mới giã danh chưởi bới, phân biệt Tôn Giáo, phân biệt đồng loại. Thầy đăng bài lên hay hình ảnh lên đều có ý nghĩa trước và sau của sự sinh tồn của nhơn sinh, đây là một thí dụ thực tế.
Tại sao chúng ta Nghe danh Ngài Quảng Bác Thân Như Lai, thì đặng tiêu được lửa nghiệp, cuống họng mở thông mà đặng cái thân thanh lương vô ngại. vì chúng ta sống trong xã hội đấu tranh sinh tồn, thượng đội hạ đạp, không biết hòa đồng thương nhau dù cho ăn ngủ chung giường cũng chưa chắc gì hòa thuận với nhau, ôi thôi cái khổ trăm bề không bao giờ giấy bút nào ghi cho hết, chỉ bằng mình tin tấn hướng thiện niệm danh các vị bề bên cầu giúp đở của muôn loài thì mình mới được ăn nói thoải mái, thì đặng tiêu được lửa nghiệp, cuống họng mở thông mà đặng cái thân thanh lương vô ngại.
Thầy đã nói sơ qua về ý nghĩa danh hiệu của Ngài Quảng Bác Thân Như Lai, tiếp theo Thầy sẽ nói sự mầu nhiệm của tầng thứ 4 nầy, ở đây thờ tất cả sắc lệnh về giải phá các nghiệp báo của các cõi.
Thí dụ ở cõi ta bà nầy, khi có một người chuẩn bị chết, chúng ta phải chuẩn bị tinh thần làm thủ tục để siêu độ cho người nầy về thế giới tâm linh cao hơn, và được an lạc hơn.
Thứ nhất chúng ta phải thanh tịnh, đốt 4 cây đèn cầy bốn góc người chết nằm, và trì chú chuẩn đề vào nước để rãi trên và xung quanh xác chết để linh hồn của người chết không bị dành giựt.
Thứ hai có sắc lệnh trị quan tài, vì quan tài đóng rồi lâu ngày sẽ có âm khí, và ngày ráp quan tài không trúng ngày hoàng đạo tốt, cung mạng của quan tài thước tấc không hạp với người chết.
Cách trị quan tài :
Viết sắc lệnh: Ai là Sám Chủ Cúng đám, ai là Trai chủ ( Tang chủ ) sẽ hóa giải tất cả oan gia nghiệp chướng trái chủ với quan tài, người chết, trai chủ, sám chủ, và toàn thể gia quyến, vì quan tài như chiếc xe chuẩn bị chạy thì chúng ta phải kiểm tra xăng nhớt và bộ máy cũng như toàn thể chiếc xe có an toàn không? quan tài từ chổ đi và chổ đến nơi nào? Vị Phật, chúa hay đấng thiêng liêng nào tiếp dẫn và nhận. Trong quan tài có 7 đèn cầy ly màu trắng hay màu gì tùy ý. Tượng trưng cho thất tinh soi chiếu xóa hết oan gia nghiệp chướng, còn dưới đáy quan tài để 3 đèn cầy ly hoặc đèn tượng trưng cho Thiên Địa Nhơn hòa, những đèn cầy nầy xếp như sau:

Đèn                 Đèn

            Đèn
           
            Đèn

            Đèn

Đèn                 Đèn

Đó là hình xếp của những cây đèn cầy trong quan tài

            Đèn

            Đèn

            Đèn
Đây là ba cây đèn dưới đáy quan tài.
Đốt đèn xong vị sám chủ cùng 2 người hoặc 4 người hoặc 6 người cùng đi quanh quan tài rãi nước tịnh thủy được trì chú, có đốt sắc lệnh vào ly nước. đọc chú chuẩn đề, đi ba vòng xong trở vế Bàn Thờ Phật
Làm lễ nhập mạch, có đốt sắc lệnh nhập mạch, nhập mạch xong, đốt sắc lệnh phát tang xong, đốt sắc lệnh phục hồn cúng cơm xong, thỉnh vong qua bàn Phật cúng cầu siêu đốt sắc lệnh, Sắc lệnh động quan tài chuẩn bị đi chôn, sắc lệnh trình tổ đường, sắc lệnh cáo đạo lộ, sắc lệnh trị huyệt, sắc lệnh báo cáo Thổ địa thần giữ mồ mã, sắc lệnh an sàng, sắc lệnh khai mộ, sắc lệnh cúng tuần từ 1 đến 7 tuần là 49 ngày, sắc lệnh 100 ngày, sắc lệnh 1 năm, sắc lệnh 2 năm….
Người chết chuyển kiếp nầy cũng như đi qua hải quan lên máy bay vậy. đi qua phương khác lập nghiệp vậy. dù có làm quan hay tu cở nào cũng phải đủ thủ tục. chỉ riêng những người biết ngày biết giờ chết, thì người ta đã hoàn thành thủ tục sớm, người ta tự đi rồi. đó là nói sơ qua sự giải nghiệp chết tùy theo sắc lệnh, nào oan gia nghiệp chướng cúng cầu an, bệnh hoạn, hay những nghiệp khác, nhiều bao nhiêu thì chúng ta phải viết sắc lệnh giải bấy nhiêu, ở dương trần, một người bệnh vào bệnh viện phải đủ giấy tờ, khâu nào cũng có giấy, cuối cùng là toa thuốc, thì cõi âm cũng vậy.
Thầy đã khai mở tiết lộ cho nhơn sinh hiểu rỏ cách thức hành chánh của cõi âm cũng như cõi dương, nhưng nhiều người trong những Tôn Giáo cho Thầy là cổ hủ, còn thờ phụng thần thánh ma quỷ, đây không phải thờ phụng Thần Thánh ma quỷ mà là trọng nhơn sinh các cõi đang làm việc, nếu chúng ta vô một cơ quan nào muốn gặp giám đốc thì trước tiên phải qua Bảo vệ trình giấy, sao đó thư ký giám đốc hay ai đó chúng ta cũng trình giấy rồi mới gặp giám đốc, mà chưa chắc gì được gặp nữa. Thầy đã đem thân và con đường tu của Thầy ra thí nghiệm cho nhơn sinh thấy, theo lời Phật dạy trong các kinh sách đã được dịch lại, không quy y làm theo các cõi Thần Thánh ma quỷ hay tôn giáo khác, chỉ có Phật thôi, không quy y mà làm theo mệnh lệnh của nó thì chẳng khác nào đã quy y nó rồi, bị nó đè đầu cởi cổ mà chẳng dám chống lại, bị vu oan dá họa chụp mũ phủ đầu, mà thân mổi nhơn sinh đều thấp cổ bé họng biết đâu mà cầu cứu giải oan, chỉ có cách là xã bỏ thân nầy lập nên lời nguyền rồi rốt ráo tu hành cho đến ngày thành chánh đẳng chánh giác.
Thầy có đến cứu giúp gia đình nghèo vì bị vu oan dá họa để cướp đất họ, khi thầy đến giúp cũng bị nhiều cách trở, phiền não thị phi đến với Thầy, nhưng Thầy không ngại xã hội thị phi mà Thầy chỉ chú tâm vô việc hóa giải oan gia ách nạn thôi, còn chuyện thị phi thì xã hội nầy đầy như đống rác rồi.
Thầy mới kêu chủ gia đình thành tâm bóc gạo niệm Thất Bảo Như Lai, thì dân làng và chính quyền có đến xem sự việc Thầy giúp đở gia đình, Thầy không cho tiền của, mà Thầy viết Sắc lệnh cải số mệnh cho gia chủ quy y theo Phật, bỏ xác thân nầy tìm cái tốt hơn, Thầy ở đó 3 ngày cùng Tu Hành, cùng làm việc để sinh sống, cứ ai ghé qua nhà đó thăm người nầy đều xin Thầy cái Phép khai thị để làm ăn sinh sống, có người Thầy cho một chử, có người Thầy cho một bài thơ, và cứ liên tục như vậy một ngày gần cả trăm người tới, công an xã, mặt trận cũng tới xem như thế nào, nói Thầy không được phép truyền Đạo, cấm dân quan hệ giao du với Thầy, vì cho Thầy là Tà Đạo, đến ngày thứ ba, thì có một người ăn mặt sang trọng đến tìm Thầy hỏi, A Di Đà Phật Thầy biết Tôi là ai không? Thầy trã lời Ngài là A Di Đà Phật. người nầy mĩm cười không nói lời nào nữa bỏ ra về, Thầy tưởng vậy là xong việc, Thầy chuẩn bị thu xếp đồ về, thì vị thí chủ nầy quay lại, đưa cho một tờ giấy, trong tờ giấy có ghi sẽ cho vị chủ nhà nầy đất và xây cho căn nhà, tạo công ăn việc làm cho vị chủ nhà nầy, còn riêng Thầy vị thí chủ đưa một danh thiếp và bao thơ cúng dường Tam Bảo, sẽ liên lạc với Thầy sao.
Thời gian thấm thoát trôi qua, sự việc xãy ra như lời vị Thí Chủ nói, và đã thực hành đúng như lời. chủ nhà mới gọi điện cho Thầy, thỉnh Thầy lên ăn tân gia nhà mới, trong sự vui mừng không thể tả của chủ nhà và vị thí chủ nầy, Thầy mới hỏi lý do vì sao vị thí chủ nầy tốt quá vậy, vị nầy nói, con là chủ Công ty chế xuất ở Đồng Nai, vô tình nghe chuyện Thầy làm phước như vậy, con đến vấn Pháp Thầy, xem Phước Điền Đạo hạnh của Thầy thế nào? Thì không ngờ Thầy đã đạt được cảnh giới xem sinh linh là thân mạng của mình, Niệm A Di Đà Phật mà thấy mổi sinh linh đều có tánh A Di Đà Phật thì khó lắm, con đã đi khắp nơi, và đã hỏi nhiều Thầy, nhưng không Thầy nào nói như Thầy. thế là cả dòng họ người chủ nhà và vị thí chủ cũng như dân làng gần xa tới chia vui, và tụng thời kinh A Di Đà Phật thật là vui như cảnh Cực Lạc vậy.
THẤU thông Chánh Pháp tỏa Mười Phương
TỎ thông Chánh Pháp thế cúng dường
TÌNH Tiên Tánh Phật mình sung sướng
ĐỜI người đắc Quả Chúng Sanh Nương
Qua câu chuyện có thật Thầy kể trên, Thầy cầu chúc cho quý vị tin tấn tu hành đạt được phẩm vị cao nhất, để trên thành Phật Đạo dưới độ sinh linh và tử linh.
Nam Mô A Di Đà Phật giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

Sự Linh Ứng Của Kinh Lương Hoàng Bảo Sám

Có một lần hóa duyên Thầy được Phật Tử cúng dường, đó là gia đình : TRẦN VĂN BÁO
ở xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam,
Nói về bản thân chú Báo là thầu xây dựng nhà, chú Báo là người thẳng trực, nói một là một, nhà chú Báo tuy đơn sơ nhưng Rất Tôn Kính Tam Bảo, nhìn bên ngoài nhà thì giống nhà củ kỷ bình thường, nhưng vào trong nhà thì thấy nơi thờ cúng thật là trang nghiêm, thật là trân trọng, quý hiếm thay, chú Báo rất tinh tấn Tu Hành, người nào có duyên có phước lắm mới được chú Báo nhận xây nhà, vì người nầy quyết chí tu hành, không có thời gian lo việc bao đồng nữa.
Chú Báo hỏi Thầy có cần kinh gì không? gia đình sẽ cúng dường
Thầy trã lời: Thầy cần kinh Lương Hoàng Bảo Sám ( Lương Hoàng Sám )
Chú Báo hỏi thầy cần mấy trăm cuốn.
Thầy chỉ cần 10 cuốn, nhưng cuốn nào thầy cũng cần Chú Báo hay gia đình đọc qua rồi.
Chú Ý: Trước khi cúng phải để những cuốn kinh nầy lên Bàn Thờ Phật lạy Vạn Phật xong rồi tụng.
Thế là chú Báo cho thông báo cho cả dòng Tộc tụng kinh nầy, đều chú tâm vô tụng kinh nầy.
Thầy mới có bài thơ gởi tặng gia đình chú Báo là:

LƯƠNG nhân có phước muốn viên thành
HOÀNG Thiên Hậu Thổ chiếu chiếu manh
BẢO vật linh xưa ai dám sánh
SÁM rồi mới thấy đặng Phật Thanh.

Sau đó Thầy và chú Báo đến Chùa Phước Hưng để ăn cơm. ở Chùa nầy có Quán Cơm Chay.
Trụ Trì Chùa Phước Hưng nầy là Ni Trưởng Thích Nữ Thắm Liên ( An Thắm ) vị trụ trì nầy là một vị Bồ Tát hóa thân, Phước Huệ song toàn.
Phật sự viên thành. Không chê vào đâu được.
Quý hóa thay, Quý hóa thay.
Thầy cùng chú Báo đang ăn cơm nói chuyện về Bài Thơ Thầy tặng gia đình, thì Thầy giựt mình có một người đứng bên cạnh sau lưng để xin Tiền nhưng không nói, đang đứng chờ, thì nghe Thầy đọc bài thơ thì vị nầy nghe được, vị nầy đập lên vai Thầy một cái nói: Từ sáng đến giờ con xin được có 10 ngàn xin cúng dường cho Thầy nè. Xin Thầy cho con lời khuyên để tiếp tục sinh sống và nuôi mấy đứa em còn nhỏ, thì Thầy nhìn phía sau là mấy đứa chút chút ăn mặc lem luốt.
Ni Trưởng Trụ Trì và mọi người thấy vậy, đem Gạo, Tiền  và quần áo trong Chùa Phước Hưng cho vị nầy và mấy đứa nhỏ.
Thầy mới đọc bài kệ rằng:

LƯƠNG thực nhỏ xuống ở khắp nơi
HOÀNG Kim nhỏ Phước xuống quá Trời
BẢO Điện Kim Ngoa mình luôn tới
SÁM rồi Di Lạc cùng dạo chơi.

Thầy mới hỏi vị ăn xin và mấy đứa nhỏ có hiểu bài thơ Thầy nói không?
Quý vị nầy gật đầu, Dạ hiểu và xin Thầy số điện thoại rồi cảm tạ mọi người ra đi về.
Tưởng chuyện như vậy là xong, ai ngờ 6 tháng sau Thầy nhận một tin nhắn, Thầy ơi con là Lương Hoàng Bảo Sám đây, Thầy đi ra trung Tâm Bến Tre đi, con và mấy đứa em chở Thầy đi ăn Cơm. Sau tin nhắn là Hi Hi Hi nữa.
Thầy nghĩ rằng ai phá Thầy kỳ quá. Nhưng Thầy cũng Mô Phật chờ Thầy 30 Phút. Khi Thầy ra Trung Tâm Bến Tre thì không thể ngờ được. Quý vị ăn mặc rất tươm tất ra dáng một đại gia chứ không phải là thường, đi xe thì BMW của Đức hẳng hoi. Thầy thấy ngại không lên xe, nhưng quý vị nầy nói Thầy yên tâm, tụi con có ngày hôm nay là nhờ câu nói của Thầy đó, quý vị kể tiếp, từ khi tụi con nhận Gạo Tiền Quần Áo của Chùa Phước Hưng, tụi con không biết gì đền đáp, nên ngày nào tụi con cũng thay phiên nhau vào lạy Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát ở phía trước Chùa để đền công ơn của Ni Trưởng Thắm Liên, khi con ra khỏi Chùa, con lượm được tờ báo Hoa tím học trò đã củ kỷ rồi, dính bùn lem luốt, phủi sạch đọc kỷ thì trong đó có ghi, giải mật mã bằng chử, con mới đem chử Gạo, Tiền, Quần, Áo xem là số mấy, thế là con quyết chí mua số, không ngờ vận may nầy cứ làm lay ra hoài, khi có tiền rồi tụi con mua xe kinh doanh gạo và các mặt hàng khác, nay hết vận may trúng vì tụi con đã có tài sản, và làm nên sự nghiệp nầy.
Quý vị chở Thầy về Bạc Liêu chơi giới thiệu về mồ mã Tổ Tiên của Ông Bà, Thầy cười đúng là có duyên quá, Thầy vỗ vai và nói lớn, Phan Tấn Đệ, Trần Trinh Trạch, Trần Trinh Huy và cô Đen đây sao? Chỉ còn nghe tiếng cười mà nước mắt cứ chảy.Quý vị nầy nói: mong Thầy khai mở Trí Huệ để tụi con hồi nhớ lại kiếp sống trước, Thầy Chỉ cười và nói: đúng là con Phật Phật rước, con Thánh Thánh rước, con Hiền Hiền rước, con nhà ai nấy rước, vậy gia Tộc Trần của ta bắt đầu đoàn tụ dần dần.
Qua câu chuyện có thật, linh ứng của việc thành tâm sám hối. Chúc quý vị Tin Tấn Tu Hành và An Lạc
Nam Mô A Di Đà Phật giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )





Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

Phật Pháp nhiệm mầu lần thứ 18 Hành trình vào hang Bác Vật Lang

Khi chúng ta quay trở lại cúng ở trụ điểm, trung tâm điểm chúng ta đi xuống chính giữa trung tâm trong hang khoảng 10 mét, thì tới một hang rất rộng gọi là tầng thứ 3, ở đây thật là mầu nhiệm, sự mầu nhiệm ở đây không thể nói lên giấy bút được, ở đây chúng ta thấy tất cả các tầng của    Trụ, các thứ châu báu trong kinh A Di Đà đều chiếu diệu sáng choang, tất cả Như Lai đang Thuyết Pháp, đẹp như trong tranh Cực Lạc vậy, cai quản ở đây cũng có vị 84.000 tuổi thọ, và 18 vị Cao Tăng, đang làm việc như những hang mà chúng ta vừa đi qua, ở đây thờ NGÀI LY BỐ ÚY NHƯ LAI, ở đây chúng ta có thể quan sát thấy được bảy tầng Như Lai thuyết Pháp để cho chúng ta lìa các sự sợ hãi các cõi. Đạt được Bi Trí Dũng có sức lực đại hùng, đại lực, đại bi của nhà Phật vượt qua các chướng ngại vật mà tiến tu trên con đường giải thoát mà thấy Đạo.
Giải nghĩa Tên NGÀI LY BỐ ÚY NHƯ LAI để cho quý vị hiểu rỏ:
NGÀI LY => Nghì Lai =>
Nghì là bất tư nghì, không thể nghĩ bàn,
Lai là lai đáo hay đáo lai, lai lâm hay giáng lâm trở lại cho chúng ta.
LY BỐ => Lô Bí =>
Lô là nguyên một dãy, một hội, một tập đoàn, một xâu chuỗi dài vô tận
Bí là Bí mật, bí pháp, bí truyền, chỉ truyền tâm với những người đạt tới cảnh giới tối cao của nhà thiền của Phật
BỐ ÚY => Bí Ố =>
Bí là khóa lại, đóng kín, ngăn chặn không cho lọt qua, không cho vào
Ố là hoen ố, ố uế, dơ bẩn, tạp niệm, làm cho chúng ta sợ hải.
ÚY NHƯ => Ư Nhúy =>
Ư là sức mạnh vộ tận trong người chúng ta được khai mở, theo tiếng tàu gọi là Chi là khí, Tiếng Nhật là Ki ai, là tiếng hội hiệp khí lực để tung ra, tiếng Hàn Quốc thì Ki hap
Nhúy – y = Nhú là khí lực vừa khởi lên chuẩn bị sẳn sàng
Nhúy – N = Húy là hội hiệp tất cả sức mạnh toàn năng của con người nói riêng, cũng như Vũ trụ nói chung, chuẩn bị tung ra. Người nào đạt được sức mạnh nầy thì không còn sợ hãi khi đi qua các cõi vô hình nữa.
NHƯ LAI => Nhai Lư => là thông tất cả vạn vật trong Vũ Trụ, tất cả phép tắc huyền môn thờ cúng, hay bất cứ chuyện gì trong Vũ Trụ đều thông suốt. nếu ai đạt được tới cảnh giới nầy thì mọi chướng ngại coi như rơm như rác, như muối bỏ vào biển vậy. Khi gặp chướng nạn hãy thành tâm nói NGÀI LY BỐ ÚY NHƯ LAI giáng lâm hộ độ cho con vượt qua nghiệp chướng. đọc lên 3 lần thì sẽ thấy ứng chứng lòng ngực chúng ta nặng lên vì một sức mạnh vô hình, có thể tung chưởng lúc nào không hay không biết, khi xong việc, chúng ta chỉ cần bắt ấn kiếm quyết tay phải để vào huyệt ấn đường nói : Cung Thỉnh NGÀI LY BỐ ÚY NHƯ LAI hồi cung. Xuất ( 3 lần ) nếu không thỉnh Ngài xuất ra thì con người chúng ta sẽ nóng lên đầy giận dữ như ngài hộ pháp vậy, nếu để lâu có thể cháy nội tạng nguy đến tính mạng. Tất cả các vị Phật đều ứng chứng như vậy chứ không riêng vì Ngài Ly Bố Úy Như Lai. Liệu chúng ta có thành tâm hay không? hay nghe rồi chê bay như trò đùa thì không bao giờ thấy Đạo.
Ở đây Ngài chỉ rỏ Kinh Pháp Hoa đặc biệt là quyển bảy, Lục tự thần chú vương kinh, Bát không quyến tác thần chú. Để hộ pháp cho những người có duyên tu tập đạt được tới cảnh giới tối cao mà không bị phá, cũng như bị tẩu hỏa nhập ma vậy. những kinh nầy chúng ta có thể tìm trên Google trong các đại tạng kinh của nhà Phật. nói chung kinh nhiều quá nên người tu không quan tâm nhiều những kinh điển quý báu mà thực hành tu luyện cho hết. Tập trung cho đông đọc vài bộ kinh ăn vài tô tương là đi chê hết người nầy tới người kia, Thí dụ có một đám chết hay một đám gì đó, mà chủ nhà mời khách mà chạm trán, một đoàn chuyên niệm Phật, một đoàn chuyên tụng và lại sám hối, thì ôi thôi sẽ có xung đột sau đám đó, nhưng nói về sự hấp thụ và hiểu biết thì ở ngoài bìa kinh thôi. Nếu muốn đạt được tới cảnh giới tối cao của nhà Phật thì phải biết kỉnh vạn vật. chúng ta đang đứng nơi đây nhìn thấy vạn vật như từ Vũ trụ xuống vậy, chúng ta có thể thu gần dần lại và nhìn thấy rỏ, và hiểu thấu người đó đang làm gì? Nhưng sự chuyển hướng cuộc gọi hay chuyển hướng tin nhắn thì người cài mạng lưới bản đồ chỉ biết địa chỉ đang phát sóng chứ không biết người đang chuyển hướng, chỉ có những người thiền định cao thâm mở Thiên nhãn thông mới nhìn thấy rỏ được.
ở đây có 8 hang cũng như 8 cung bát quái, cũng như bánh xe luân hồi, mổi cung đều có một bộ kinh và thờ một Ấn Sắc lệnh. Và cách sử dụng 10 con số từ 0 đến 9, mổi con số đều có câu thần chú riêng, để cầu tài, để ôn hòa âm dương, hay diệt bỏ đều nằm trong 10 con số nầy.
Giải thích đơn giản của sự giải mã trong hang của bộ giải mật mã như sau:
0 là  Vũ Trụ bao la, vạn sự như ý.
1 là chắc chắn mọi công việc được thành công
2 là âm dương đều hòa được mãi mãi
3 là tam tài được trường tồn mãi mãi
4 là tứ quý khai hoa tử
5 là ngũ trung đều hành ngũ hành trong Vũ Trụ
6 là lộc đến khắp nơi trong Vũ Trụ
7 là nổi thông suốt Vũ Trụ cùng đồng
8 là phát đạt thịnh vượng khai hoa lộc
9 là thừa phúc lộc thọ trường tồn mãi mãi.
10 con số nầy đều có một chữ cái, và một câu thơ ( thần chú khi đọc sắc lệnh ) viết trên giấy vàng chử đỏ, nếu ai uống được 10 con số nầy thì đi dưới nước như đi trên đất, đi trên đất như đi dưới nước, biến hiện khắp nơi, nhìn thấy mọi nơi chỉ cần biết địa chỉ, và biết nơi đó có những gì? Âm binh hay dương binh đều biết. cũng như chúng ta mở máy tính, hay điện thoại có mạng internet vậy, mổi con số đều có sắc lệnh của 7 vị Phật và ấn lệnh, trên sắc lệnh nầy đều có dấu ấn Phật Hoàng. Nhiệm màu thay như trong kinh Phật đã nói. Chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu ai có cơ duyên thì Thầy chỉ nói ra bấy nhiêu đây thì quý vị đã chứng quả Phật rồi, nếu ai giỏi hơn nữa thì làm thơ cho mình để làm bảo bối từ những con số nầy.
Thí dụ số 0:
Không tên không tuổi không tháng ngày
Biết đến làm chi khổ lắm ai
Loanh quanh dưới thế nhìn khang thái
Chỉ thấy mình ta đặng Phật Ngài
Đó là một thí dụ đơn giản, người ta nghe mình nói một câu thơ trong lúc giao duyên thì người ta biết mình chứng đặng hay không rồi. người ta sẽ vui và hạnh phúc được trao đổi những cái hay với chúng ta, chú ý: nhiều duyên phải biết giữ mình, chứ nhiều duyên là khổ lắm, nếu mình không có Bi Trí Dũng giải quyết sẽ tan nát vậy. chứ ăn học cho lắm mà khi đụng chuyện trái ngịch lòng mình thì ăn nói vô duyên lệch sóng thì cái miệng đấp muối không kịp thì nguy lắm. người mà bị lệch sóng một lần rồi chắc khó lắm mới bắt được sóng của mọi người trở lại. có khi vĩnh viễn không bao giờ tiếp được sóng lại. chỉ trừ sám hối. nếu sám hối mà không ai chứng thì ôm hận suốt đời đến chết, kiếp sau hay nhiều kiếp sau nữa tái sanh vào người thân mà trã nợ duyên đời cho nhau.
Vậy qua những bài Phật Pháp nhiệm mầu, quý vị rút ra được kinh nghiệm, xếp lịch thời gian cho mình tu tập, ở đâu tu cũng được, không nhất thiết là người tu có chùa mới Tu được, chúng ta đọc kinh, thần chú, hay bài kệ mà thâm nhập vào Tâm thì gió reo cũng nghe được, xe chạy cũng nghe được, vạn vật phát ra âm thanh đều nghe được. có câu thơ cũng như thần chú của đạo thì chúng ta nên đọc thuộc lòng sẽ có năng lực vô lượng vô biên như câu thơ nói :
ĐẠO GIÁO THIÊN ĐỒNG
ĐẠO Giáo thông Thiên Vũ Trụ đồng
GIÁO duyên Phàm Thánh sánh Hư Không
THIÊN ban Sắc Lệnh Vũ Trụ thống
ĐỒNG Danh Đồng Hiệu với Hư Không
Câu chú nầy có thề giải phá tất cả chướng nghiệp, nếu quý vị nắm hai tay thật chặt, co lưởi lên , cắn răng thật chắc, đọc câu chú nầy trong tâm 7 phút khi thả ra, quý vị sẽ thấy trong người tăng sức mạnh không thể nghĩ bàn được, kinh mạch đã khai thông. Những câu chú khác cũng làm y như vậy, không riêng gì câu nầy.
Kính mong hồng ân Tam Bảo Mười Phương Chư Phật gia hộ cho quý vị Thân Tâm An Lạc, Kiết Tường Như Ý. Đạt được Phẩm vị cao nhất, để trên thành Phật Đạo dưới độ chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )


Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

ĐẠO GIÁO THIÊN ĐỒNG



Đạo Giáo là Đạo Tổ cùa Nho Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo, Tam Thánh. Đạo giáo có từ vô thủy vô chung không có hạn định thời gian không gian được.
Tên Đạo giáo xuất phát từ chữ Đạo,
道沖,而用之或不盈 。淵兮,似萬物之宗
Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề, tự vạn vật chi tông.
Đạo trống không, nhưng đổ vào mãi mà không đầy. Đạo sâu thẳm, dường như là tổ tông của vạn vật.
Đạo là đơn vị tối sơ, nguyên lí của vũ trụ và là cái tuyệt đối. Vạn vật xuất phát từ Đạo, nghĩa là cả vũ trụ và như vậy, trật tự vũ trụ cũng từ Đạo mà ra, tương tự như nguyên tắc tự nhiên, nhưng Đạo lại chẳng phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn gốc và sự dung hòa, không thể định nghĩa được. Đạo là Vô danh ,
道可道,非常道 。名可名,非常名
無名天地之始,有名萬物之母
Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh.
Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu.
Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật sự.
Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật.
Cái Dụng () của Đạo tạo ra âm dương, nhị nguyên, những cặp đối đãi và từ sự biến hóa, chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
Thiên Thai tông chủ trương "một niệm phát sinh tam thiên đại thiên thế giới xuất hiện" (一念三千) và Hoa Nghiêm tông nhấn mạnh đến khía cạnh "Lí sự vô ngại" và "Sự sự vô ngại". Sự tương tác, xuyên suốt của vạn vật chính là sự thể hiện của Phật tính. Hai tông nầy hợp lại gọi là Thiên Đồng
ĐẠO GIÁO THIÊN ĐỒNG
ĐẠO Giáo thông Thiên Vũ Trụ đồng
GIÁO duyên Phàm Thánh sánh Hư Không
THIÊN ban Sắc Lệnh Vũ Trụ thống
ĐỒNG Danh Đồng Hiệu với Hư Không
chủ trương kế thừa sự sùng bái thiên nhiên và sùng bái tổ tiên ( Đạo làm người hành đạo để giải thoát) Từ khi Thầy khai mở và phát triển Đạo Giáo Thiên Đồng đến nay đã có 900.000.000 ( chín trăm triệu tín đồ ) đăng ký theo thống kê của 1500 ngôi đạo quán của China ( Trung Quốc ) Tibet ( Tây Tạng ) và các nước gần 2700 ngôi đạo quán đã có thư thỉnh Thầy truyền Pháp. Đạo Giáo Không chỉ là một tôn giáo, dạy con người trở về với gốc Đạo, huyền đồng cùng vũ trụ, Đạo giáo còn đóng góp rất nhiều cho nền văn minh của Nhơn loại. Rất nhiều sinh hoạt độc đáo của người Nhơn loại đã lan truyền khắp thế giới có nguồn gốc xuất phát từ Đạo giáo. Đạo là Đạo chứ không phải cuồng Đạo, Đạo giáo trung nhận Thuấn là Địa Quan Đại Đế, NghiêuThiên Quan Đại Đế, Hạ VõThủy Quan Đại Đế.
Trong văn học Việt Nam, thời Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, (ngoài) đường không lượm của rơi, (trong) nhà khỏi lo đóng cửa.
Điển cố này ảnh hưởng trong văn học cũng như các khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài “Cư Trần Lạc Đạo Phú” của vua Trần Nhân Tông (sư tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử của Phật giáo) có câu:
Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Ơn Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha.
Các vua Việt Nam cũng dùng Nghiêu Thuấn là mẫu mực cho việc cai trị. Bên trong điện Thái Hòa (thành nội Huế), ngay trên ngai vua có bài thơ:
Văn hiến ngàn năm dựng
Núi sông vạn dặm xa
Hồng Bàng thuở lập quốc
Nghiêu Thuấn vững sơn hà.
Thời Trần, các vua nhường ngôi cho con về làm Thái Thượng Hoàng, thường được đặt tôn hiệu có tên của vua Nghiêu, với ngụ ý truyền thuyết vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn là người tài. Cách đặt này ngoài ngụ ý so sánh Thái Thượng hoàng như vua Nghiêu, còn so sánh vua kế vị như vua Thuấn.
Trần Thái Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Hiển Nghiêu.
Trần Thánh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Quang Nghiêu.
Trần Nhân Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Hiến Nghiêu.
Trần Anh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Quảng Nghiêu.
Trần Minh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Chương Nghiêu.
Nghiêu (2337 - 2258 TCN) là một vị vua huyền thoại ở Trung Quốc, một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. cũng được gọi là Giao Đường Thị, ông sinh tại Nhân Phóng Huân hay Nhân Kỳ là con trai thứ hai của Đế Khốc và Khánh Đô. Ông cũng được gọi là Đường Nghiêu.
Thường được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, lòng nhân từ và sự cần cù của vua Nghiêu được coi là kiểu mẫu cho mọi vị vua và hoàng đế Trung Hoa khác. Buổi ban đầu lịch sử Trung Hoa, ba gương mặt, Nghiêu, Thuấn và Vũ rất thường được đề cập tới, và những nhà sử học thời sau tin rằng có thể họ đại diện cho những lãnh tụ của các bộ tộc liên minh đã thành lập nên một hệ thống trật tự chính phủ thống nhất trong một giai đoạn chuyển tiếp sang một xã hội phong kiến gia trưởng.
Theo truyền thuyết, Nghiêu lên ngôi vua khi mới 20 tuổi, chết khi 119 tuổi và ông truyền ngôi cho vua Thuấn, người được ông gả cho hai cô con gái từ trước. Trong nhiều cống hiến của mình, vua Nghiêu được cho là đã phát minh ra cờ vây.
Truyền thuyết "Sào Phủ Hứa Do" là một chuyện đời vua Nghiêu. Nhân vật Bành Tổ cũng được cho là một nhân vật của thời vua Nghiêu.
Thuấn là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Tên khi sinh Diêu Trọng Hoá. Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị Thuấn nổi tiếng là người hiền đức trong thiên hạ. Theo truyền thuyết, mẹ ông mất sớm, cha lấy vợ khác và sinh ra Tượng. Dù bị mẹ con Tượng và cả người cha đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con.
Danh tiếng của Thuấn đồn xa. Ông được vua Nghiêu mời giúp cai quản việc nước và gả cho hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh. Sau một thời gian, Nghiêu già yếu, Thuấn được Nghiêu nhường ngôi khi 53 tuổi và chết khi 100 tuổi. Ông đặt thủ đô vương quốc tại Bồ Phản , Sơn Tây hiện nay. Ông cũng được gọi là Đại Thuấn hay Ngu Thuấn
Việc Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. Thời cổ đại, trị thủy để ổn định cuộc sống, phát triển việc cày cấy là việc cấp bách hàng đầu. Theo sử sách, Thuấn sai Cổn làm việc trị thủy. Cổn trị thủy không thành công nên bị Thuấn xử tội chết.
Thuấn lại dùng con Cổn là Hạ Vũ trị thủy. Sau nhiều năm, Hạ Vũ trị thủy thành công, vì thế được Thuấn chọn làm người kế vị. Thuấn không truyền ngôi cho con mình là Thương Quân mà trao ngôi báu cho Hạ Vũ.
Vua Vũ nhà Hạ , (2205 TCN-2198 TCN) là vua đầu tiên nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đầu tiên xác lập chế độ cha truyền con nối. Tên khi sinh là Tỉ Văn Mệnh thường được gọi là Đại Vũ Theo truyền thuyết, vua Vũ là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc, được coi là người sáng lập ra triều đại này. Ông được nhớ tới nhiều nhất với tư cách là người đã có công phát triển kỹ thuật, Pháp thuật, chiến thuật trị thuỷ chinh phục các sông ngòi Trung Quốc. Vũ đã đào chín sông mới, khai thông 9 tuyến đường núi lớn, bỏ ra mười ba năm và khoảng 20.000 nhân công để hoàn thành nhiệm vụ.
Vũ cũng là người nổi tiếng về tính kiên trì và kiên quyết. Ông được kính trọng như một vị vua hoàn hảo. Các câu chuyện về công việc trị thủy của ông cho rằng trong thời gian làm việc, ông đã ba lần qua nhà mà không vào; có nghĩa là ông coi vấn đề trị thủy quan trọng hơn việc gia đình rất nhiều.
Theo Sử ký, từ thời Thuấn và Hạ Vũ, chế độ cống thuế đã hoàn bị. Cuối đời, vua Vũ đi săn bắn và hội họp chư hầu ở Giang Nam và mất tại đó. Ông được chôn cất ở nơi này. Theo giải thích của Sử ký, Cối (hay Hội) và Kê là việc hội họp chư hầu và khảo sát thành tích, vì vậy nơi ông mất và xây mộ được gọi là Cối Kê (hay Hội Kê)
Lăng mộ được xây dựng ở Cối Kê để tưởng nhớ ông. Một số hoàng đế sau này đã đi tới đó thực hiện các nghi lễ tưởng niệm ông, đặc biệt có cả Tần Thủy Hoàng. Lăng Đại Vũ , cũng đã được xây dựng trên di tích nơi các buổi lễ đó được thực hiện.
Trước thời vua Vũ, ngôi vua được kế tiếp cho người nào được cộng đồng coi là có đạo đức cao nhất, chứ không phải là truyền cho con. Ban đầu, Hạ Vũ đã chọn người hiền tài là Cao Dao thay mình, nhưng Cao Dao mất sớm nên ông chọn con Cao Dao là Ích.
Theo chính sử, con trai vua Vũ, Khải, đã chứng minh được khả năng của mình, được nhiều người ủng hộ hơn Ích và trở thành người thừa kế ngôi báu của cha, đánh dấu sự khởi đầu của một triều đại mới là nhà Hạ , triều đại đầu tiên của phong kiến Trung Quốc. Nó đã trở thành một hình mẫu cai trị dựa trên thừa kế ở Trung Quốc
Mọi người tin rằng, trong thời đại vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, thiên hạ không có tranh giành lợi ích, quyền lực, vua và người bình thường đều sống cuộc sống tốt đẹp và giản dị.
Ba vị Vua nầy cũng có Binh Thư Thánh Ký của Đạo Giáo Thiên Đồng để lại. Nên mới bình Thiên Hạ được dể dàng, Vậy chúng ta là hậu lai đã tái sanh từ ông bà cha mẹ, hay chính bản thân chúng ta,  lại không dùng binh thư thánh ký nhơn đức con người mà bình thiên hạ, mà lại xâu xé phân biệt nhau làm gì? Thầy đã nói ra huyết thống từ ngàn xưa cho tới nay, chúng ta phải bình tâm mà dừng lại mọi hoạt động dục vọng ham muốn, để xây dựng thế giới đại đồng, bình đẳng toàn cầu hóa. ở đây Thầy chỉ nói giới thiệu sơ qua ĐẠO GIÁO THIÊN ĐỒNG, còn Binh Thư Thánh Ký Thầy không Tiết lộ, Quý Cao Nhơn Hoan Hỷ.
Nam Mô A Di Đà Phật giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )