KINH
TÙY CẦU ĐẮC ĐÀ LA NI
Tôi Nghe như vầy!
Một thời Đức Bà Già Bà Bhagavaṃ: Thế Tôn ngự tại núi Kỳ Xà Quật ở
Đại thành Vương Xá cùng với các đệ tử dự hội nói pháp.
Bấy giờ vị Đại Phạm Thiên Vương là Chủ của Thế Giới Sa Bà đến chỗ
Phật ngự nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, chắp
tay hướng về Đức Phật rồi bạch Phật rằng: Nguyện xin Đức Thế Tôn vì lợi ích cho
chúng sinh, nói Đà La Ni Thần Chú khiến cho khắp cả Trời Người được an vui.
Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Đại Phạm Thiên Vương! Ông hay
thương xót tất cả chúng sinh mà hỏi về việc lợi ich này.
Ông hãy suy nghĩ cho khéo! Ta sẽ vì ông mà phân biệt diễn nói.
Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú này hay ban cho tất cả
chúng sinh sự an vui tối thắng. Chẳng bị tất cả Dạ Xoa Yakṣa, La Sát Rākṣasa với
bệnh điên loạn Unmāda, Quỷ Đói Preta, Quỷ Tắc Kiến Đà Skandha, các hàng quỷ thần
gây não hại, cũng chẳng bị bệnh nóng lạnh xâm tổn.
Ở nơi cư ngụ luôn luôn được thù thắng, chẳng bị sự xâm hại bởi đấu
chiến oán thù, lại hay đập tan kẻ địch, chú trớ yểm đảo chẳng có thể làm hại, tội
của nghiệp trước đều được tiêu diệt. Chất độc chẳng thể gây hại, lửa chẳng thể
thiêu đốt, đao chẳng thể gây thương tích, nước chẳng thể cuốn chìm. Chẳng bị sấm
sét lôi điển, phích lịch gió ác mưa bão không đúng thời … gây tổn hại.
Nếu có người thọ trì Thần Chú này thì nơi cư ngụ được thù thắng. Nếu
có thể viết chép Thần Chú rồi đeo trên cổ hoặc cột trên cánh tay thì người đó
hay thành tất cả việc thanh tịnh tối thắng. Thường được Chư Thiên Devānāṃ, Long
Vương Nāgarāja ủng hộ. Lại được Chư Phật Buddhānāṃ, Bồ Tát Bodhisatva nghĩ nhớ.
Kim Cương Mật Tích Vajra guhyaka, Tứ Thiên Đại Vương Catvāsraḥ
mahā rājikāḥ: bốn vị Đại Thiên Vương Thiên Đế Thích Indra, hay Śakra, Đại Phạm
Thiên Vương Maha brahma deva rāja, Tỳ Nữu Thiên Viṣṇu, Đại Tự Tại Thiên
Maheśvara, Câu Ma La Quân Chúng Kumāra sena gaṇa, Tỳ Na Dạ Ca Vināyaka, Đại Hắc
Thiên Mahā kāla, Nan Đề Kê Thuyết Thiên Nāndikeśvara … ngày đêm thường
theo ủng hộ người trì Chú này.
Lại được Ma Đế Kiến Noa Mātṛ gaṇa, Thiên chúng Deva gaṇa với các
Thiên Thần Chúng Devatā gaṇa, Tự Tại Īśvara khác cũng ủng hộ như vậy. Lại được
các Ma Māra, Thiên chúng với các quyến thuộc.
Chư Thần, bậc có Uy Đức lớn của Thần Chú là: Ương Câu Thi Thần Aṃkuśe,
Bạt Chiết La Thần Vajra, Thương Yết La Thần Śaṃkhara, Ma Mạc Kê Thần
Māmakī, Tỳ Câu Tri Thần Bhṛkuṭi, Đa La Thần Tārā, Ma Ha Ca La Thần Mahā kāla, Bộ
Đa Thần Bhāta, Chước Yết La Ba Ni Thần Cakra pāṇi, Đại Lực Thần Mahā bala, Trường
Thọ Thiên, Ma Ha Đề Tỳ Thần Mahā devī.
Ca La Yết Ni Thần, Hoa Xỉ Thần Puṣpa danti, Ma Ni Châu Kế Thần,
Kim Kế Thần, Tân Nghiệt La La Khí Thần, Điện Man Thần, Ca La La Lợi Thần, Tỳ
Câu Tri Thần Bhṛkuṭi, Kiên Lao Địa Thần Dṛḍha prthivī, Ô Đà Kế Thi Thần, Thập
Phiệt Lật Đa Na Na Thần, Đại Nộ Thần Mahā krodha.
Chấp Kiếm Thần Khaḍga dhāra, Ma Ni Quang Thần Maṇi prabha, Xà Tri
Ni Thần Jaṭini, Nhất Xà Tra Thần Eka jaṭa, Phật Đà Đà La Ba Lợi Ni Thần Buddha
dhara pàlani, Lăng Kê Thuyết Thần Laṅkeśvara và vô lượng các Thiên Thần Devatā
khác … các Thiên chúng ấy đều đến ủng hộ.
Nếu Thần Chú này được đeo trên thân, bàn tay… thì Quỷ Tử Phụ Mẫu
Hāṛtye và Pañcika, Ma Ni Bạt Đà Thần Maṇi bhadra, Lực Thiên Bala deva, Đại Lực
Thiên Mahā bala deva, Thắng Khí Ni Thần Saṃkhini, Câu Tra Đàn Để Thần Kuṭa
danti, Công Đức Thiên Śrī, Đại Biện Thiên Sarasvatī … luôn luôn đi theo ủng hộ.
Nếu có người nữ nào thọ trì Thần Chú này sẽ có thế lực lớn, thường
sinh con trai. Lúc thọ thai thì thai sẽ được an ổn, khi sanh sản được an vui,
không có các bệnh tật, mọi tội tiêu trừ, quyết định không nghi. Do sức của phước
đức mà tiền của, lúa gạo được tăng trưởng. Lời bảo ban khiến cho người đều tin
nhận. Thường được tất cả điều cung kính, nên phải khiết tịnh trong sạch tinh
khiết.
Nếu có người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ trì chú này sẽ được
an vui, không có bệnh tật, mọi tội tiêu trừ, sắc tướng đẹp đẽ mạnh khoẻ, viên
mãn cát tường, phước đức tăng trưởng.
Nếu có người nam, hoặc người nữ, đồng nam, đồng nữ… Trì Chú này sẽ
được an vui, không có bệnh tật, mọi tội tiêu trừ, sắc tướng đẹp đẽ mạnh khoẻ,
viên mãn cát tường, phước đức tăng trưởng, tất cả Chú Pháp đều được thành tựu.
Người đeo Chú này tuy chưa vào Đàn, liền thành người đã vào tất cả
Đàn, cùng đồng hạnh với người đã vào Đàn, chẳng bị ác mộng, tội nặng tiêu diệt.
Nếu có kẻ khởi Tâm ác hướng đến thỉ chẳng thể làm hại cho người trì Chú này được.
Tất cả lạc dục mong cầu đều được thành tựu.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói Chú là:
1. Na mâu tát bà đát tha nghiệt đa nẵng.
2. Na mâu bột đà đạt ma tăng chi biều
3. Án .
4. Tỳ bổ la nghiệt bệ.
5. Tỳ mạt lê xà gia nghiệt bệ.
6. Phiệt chiết la thời phộc la nghiệt bệ.
7. Nghiệt để già ha nê.
8. Già già na tỳ du đạt nê.
9. Tát bà bả ba tỳ du đạt nê.
10. Án
11. Cù noa bạt để.
12. Già già lị ni.
13. Kỳ lị kỳ lị.
14. Già mạt lị.
15. Già ha già ha.
16. Già nghiệt lị già nghiệt lị.
17. Già già lị, Già già lị.
18. Kiềm bà lị, Kiềm bà lị.
19. Nghiệt để, nghiệt để.
20. Già mạt nê già lị.
21. Cù lô cù lô, Cù lô ni.
22. Chiết lệ chiết lệ, mâu chiết lệ.
23. Thệ duệ, tỳ thệ duệ.
24. Tát bà bà gia tỳ nghiệt để.
25. Nghiệt bà tam bà la ni.
26. Bỉ lị tỷ lị
27. Dĩ lị dĩ lị
28. Tam mạn đa ca lị sa ni.
29. Thiết đổ tăng bát la mạt tha nễ.
30. Lạc xoa lạc xoa ma ma Tôi tên là…
31. Tỳ lị tỳ lị.
32. Tỳ nghiệt đa phiệt la ni.
33. Bà gia bà xả tô lị tô lị.
34. Chất lý ca mạt lệ.
35. Thị duệ.
36. Thị gia bà hê.
37. Thị gia bà để.
38. Bà già bạt để.
39. Hạt la đát na ma câu tra ma la đạt lị.
40. Tỳ chất đa la bệ sa ba đà lị ni.
41. Bà già bạt để tất địa gia đệ tỳ.
42. Lạc xoa đô ma. Tôi tên là …
43. Tam mạn đa ca la tỳ du đạt nễ.
44. Hô lô hô lô .
45. Nhược sát đát tả ma la đà lị ni.
46. Chiên noa chiên noa chiên ni.
47. Bệ già bạt đế.
48. Tát bà đột sắt tra nễ bà la ni.
49. Thiết đốt lỗ bát xoa bát loa mạt tha nễ.
50. Tỳ xà gia bà tứ.
51. Hổ lô hổ lô.
52. Mẫu lô mẫu lô.
53. Chu lô chu lô.
54. A dữu ba thư nễ.
55. Tô la bà la ma thát nễ.
56. Tát bà đề bà đa bổ thị để.
57. Địa lị địa lị.
58. Tam mạn đa bà lô cát đế.
59. Bát la bệ.
60. Tô bát la bà du nễ.
61. Tát bà bả ba tỳ du đạt nễ.
62. Đà la đà la đà la ni.
63. Bạt la đà lệ.
64. Tô mẫu tô mẫu.
65. Tô mẫu lô chiết lệ.
66. Chiết lệ giá la gia đột sắt tra.
67. Bộ la gia a thưởng.
68. Thi lị bà bô đà la chiết gia ca mạt lệ.
69. Khí sử ni khí sử ni.
70. Tát bà đề ba đa bà la đà tả câu thí.
71. Án .
72. Bát đặc ma tỳ du đề.
73. Du đạt nễ du đề.
74. Bà la bà la.
75. Tỳ lị tỳ lị.
76. Bộ lô bộ lô.
77. Mãng ngải la nhiếp bật đề.
78. Bạt bậc đa la mục khế.
79. Khương ca lị.
80. Khư la khư la.
81. Thời phộc lật đa thất lệ.
82. Tam mạn đa bát la tát lị đa bà bà chí đa du đề.
83. Thời phộc la thời phộc la.
84. Tát bà đề bà đề noa tam ma yết lị sa ni.
85. Tát để gia phiệt để.
86. Đát la đát la.
87. Na già tỳ lô yết nễ.
88. La hô la hô.
89. Hô nỗ hô nỗ.
90. Sát ni sát ni.
91. Tát bà nghiệt la ha bạc sát ni.
92. Thỉ nghiệt la thỉ nghiệt la.
93. Chu mẫu chu mẫu, tô mẫu tô mẫu.
94. Tỳ chiết lệ.
95. Đát la đát la.
96. Đa la gia đổ ma Tôi tên là… Tả. Ma Ha bội gia.
97. Tam mâu đạt la, sa già la, bát lị diễn đa, ba đa la, già già
na.
98. Sa man để na.
99. Bạt chiết la thời phộc la tỳ du đạt nễ.
100. Bộ lị bộ lị.
101. Nghiệt bà phiệt để nghiệt bà tỳ du đạt nễ.
102. Câu khí sử tam bộ la ni.
103. Xà la giá la xà lật nễ.
104. Bát la phiệt lị sa đổ đề bà sa mạn đế na.
105. Điệt tỳ dụ đà kế na.
106. A mật lật đa phiệt lị sa ni.
107. Đề ba đa bà đa lật ni.
108. A tỳ tru giá đổ mê.
109. A mật lật đa bạt la bà bộ sái.
110. Lạc xoa, lạc xoa ma ma. Tôi tên là… tả.
111. Tát bà đát la.
112. Tát bà đà.
113. Tát bà bà duệ biều.
114. Tát bồ ô ba đạt la bệ biều.
115. Tát bồ ô bát tát kỳ biều.
116. Tát bà đột sắt tra bà duệ tỳ đát tả.
117. Tát bà yết lị yết la ha.
118. Tỳ yết la ha Tỳ Bà đà.
119. Đột táp phạp bát na.
120. Đột lật nễ mật đa, a mãng ngải lược dạ.
121. Bả ba tỳ na thiết nễ.
122. Tát bà dược phu la sát sa nễ bà la ni.
123. Sa la ni tát lệ.
124. Bà la bà la.
125. Bà la bạt để.
126. Xà gia xà gia đổ ma. Tôi tên là…Tả
127. Tát bà đát la.
128. Tát bà ca lam.
129. Tất đoạn đổ bật địa gia sa đà gia.
130. Tát bà mạn trà la sa đạt nễ.
131. Xà gia tất đề.
132. Tất đề, tô tất đề.
133. Tất đà gia tất đà gia.
134. Bột địa gia, bột địa gia.
135. Bô la ni, bô la ni.
136. Tát bà bật địa gia địa nghiệt đá mẫu lật đê.
137. Xà du đát lệ xà gia bạt để.
138. Sắt xá để.
139. Để sắt xá để sắt xa.
140. Tam muội gia ma nỗ ba lại gia.
141. Đát tha nghiệt đa du đề.
142. Tỳ gia bà lô ca gia đô ma Tôi tên là…Tả
143. A sắt tra bật hiệt lam, Ma Ha bà gia đà lỗ ni.
144. Tát la tát la.
145. Bát la tát la, bát la tát la.
146. Tát bà phiệt la noa tỳ du đạt nễ.
147. Tam mạn đa ca la man trà la du đề.
148. Tỳ nghiệt đê, tỳ nghiệt đê.
149. Tỳ nghiệt đa mạt lê du đạt nễ.
150. Khí sử ni, khí sử ni.
151. Tát bà bạt ba tỳ du đề.
152. Mạt la tỳ du đề.
153. Đế xà bạt để, bạt chiết la bạt để.
154. Đề lệ lô chỉ gia địa sắt xỉ để, sa ha.
155. Tát bà đát tha nghiệt đa mẫu la đà tỳ sắc ngật để, sa ha.
156. La bà Bồ Đề tát đỏa, tỳ sắc ngật để, sa ha.
157. Tát bà đề bà đa, tỳ sắc ngật đề, sa ha.
158. Tát bà đát tha nghiệt đa hiệt lật đà lệ, địa sắt xỉ để, sa
ha.
159. Tát bà đát tha nghiệt đa Tam Muội gia tất đệ, sa ha.
160. Ấn điệt lệ, ấn đà la bạt để, ấn đà la tỳ gia bà lô cát để, sa
ha.
161. Bột la ế mê, bột la ế mê, bột la ha ma địa du sắt để, sa ha.
162. Tỷ sắt nỗ na ma tất cát lật để, sa ha.
163. Ma hê thấp phộc la na ma tất cát lật để, sa ha.
164. Bạt chiết la đà la, bạt chiết la ba ni, bà la tỳ lê gia, địa
sắt xỉ để, sa ha.
165. Tiểu lị để la sắt tra la gia, sa ha.
166. Tỳ lô trà ca gia, sa ha.
167. Tỳ lô ba xoa gia, sa ha.
168. Bùi thất la mãn noa gia, sa ha.
169. Chiết đốt lặc Ma Ha la xà, na ma tất cát lật đa gia, sa ha.
170. Bà lỗ noa gia, sa ha.
171. Na già tỳ lô chỉ đa gia, sa ha.
172. Đề bà nghiệt nãi biều, sa ha.
173. Na già nghiệt nãi biều, sa ha.
174. Dược xoa nghiệt nãi biều, sa ha.
175. Kiện đạt bà nghiệt nãi biều, sa ha.
176. A tô la nghiệt nãi biều, sa ha.
177. Già lỗ trà nghiệt nãi biều, sa ha.
178. Khẩn Na La nghiệt nãi biều, sa ha.
179. Ma hô la già nghiệt nãi biều, sa ha.
180. Hạt la sát sa nghiệt nãi biều, sa ha.
181. Ma nỗ sái biều, sa ha.
182. A ma nỗ sái biều, sa ha.
183. Tát bà già lạc hê biều, sa ha.
184. Tát bà bộ để biều, sa ha.
185. Bế lệ để duệ biều, sa ha.
186. Tất xá chế biều, sa ha.
187. Ang ba tát ba lệ biều, sa ha.
188. Cát lý nãi biều, sa ha.
189. Án.
190. Độ lô độ lô, sa ha.
191. Đổ lô đổ lô, sa ha.
192. Mâu lô mâu lô, sa ha.
193. Ha na tát bà thiết đổ lỗ ấp ma ma tả, sa ha.
194. Đà ha đà ha tát bà đột sắt tra, bát la đột sắt tra, ma ma.
Tôi tên là… tả, sa ha.
195. Bát già bát già tát bà bát la để gia thiết ca, bát la để gia mật
đa la, ma ma. Tôi tên là… tả, sa ha.
196. Thời phộc lật đa gia, sa ha.
197. Bát la thời phộc lật đa gia, sa ha.
198. Địa bát đa thời phộc la gia, sa ha.
199. Tam mạn đa bát la thời phộc lật đa gia, sa ha.
200. Ma ni bạt đạt la gia, sa ha.
201. Bố lật noa bạt đà la gia, sa ha.
202. Ma Ha ca la gia, sa ha.
203. Ma để lị già noa gia, sa ha.
204. Dược khất sử ni ấp, sa ha.
205. Hạt la sát tư ấp, sa ha.
206. A ca xa ma để ấp, sa ha.
207. Tam mãn đạt la nễ bà tất nễ ấp, sa ha.
208. Hạt la để lị chiết lam, sa ha.
209. Địa bà sa chiết lam, sa ha.
210. Để lị tán địa gia chiết lam, sa ha.
211. Bệ la chiết lam, sa ha.
212. A bệ la chiết lam, sa ha.
213. Hạt bà chiết lệ biều, sa ha.
214. Hạt bà tán đà la ni, hô lô hô lô, sa ha.
215. Án, sa ha.
216. Tát bà, sa ha.
217. Bộ phiệt, sa ha.
218. Bộ lỗ bộ phiệt, sa ha.
219. Chất tán chất tán, sa ha.
220. Phí tán phí tán, sa ha.
221. Đà la ni, sa ha.
222. Đà la ni, sa ha.
223. Ác kỳ nễ, sa ha.
224. Đế thù bà bố, sa ha.
225. Chỉ lý chỉ lý, sa ha.
226. Tỷ lý tỷ lý, sa ha.
227. Bột địa gia, bột địa gia, sa ha.
228. Mạn trà la tất địa duệ, sa ha.
229. Mạn trà la bạn đà duệ, sa ha.
230. Tư ma bạn đạt ni, sa ha.
231. Chiêm bà chiêm bà, sa ha.
232. Tất đam bà, tất đam bà, sa ha.
233. Sân đà, sân đà, sa ha.
234. Tần đà tần đà, sa ha.
235. Bạn đà bạn đà, sa ha.
236. Mâu hối già mâu hối già, sa ha.
237. Ma ni tỳ dụ đề, sa ha.
238. Tố lật duệ, tố lật duệ, tô lị gia, tỳ dụ đề, sa ha.
239. Chiến điệt lệ, tô chiến điệt lệ, bố lật noa chiến điệt lệ, sa
ha.
240. Nhạ sát đa la gia, sa ha.
241. Thất phệ, sa ha.
242. Phiến để duệ, sa ha.
243. Tô phộc tất để dã, dã nễ, sa ha.
244. Thi phạm yết lị, phiến để yết lị, bố sắt trí bạt lạt đà nễ,
sa ha.
245. Thất lị yết lệ, sa ha.
246. Thất lị gia bạt lị đà nễ, sa ha.
247. Thất lị gia thời phộc la nễ, sa ha.
248. Na mâu chi, sa ha.
249. Ma lỗ chi, sa ha.
250. Bệ già phiệt để, sa ha.
Chú Nhất
Thiết Phật Tâm Chú:
1. Án.
2. Tát bà đát tha nghiệt đa mộ lật đế.
3. Bạt la phiệt la nghiệt đa bà duệ.
4. Xa ma diễn đổ ma ma. Tôi tên là… tả, tát bà bả bế biều.
5. Sá tất để la bà phiệt đổ.
6. Mâu chi, mâu chi, tỳ mâu chi.
7. Giá lị, giá lị, giá la nễ.
8. Nghiệt đế.
9. Bà đà la nãi.
10. Bộ địa bộ địa.
11. Bộ đà gia, bộ đà gia.
12. Bột địa lợi, bột địa lam.
13. Tát bà đát tha nghiệt đa hiệt lật đà gia.
14. Thụ sắt lai.
15. Sa ha.
Nhất
Thiết Phật Tâm Ấn Chú:
1. Án.
2. Bạt chiết la bạt để.
3. Bạt chiết la bát la để sắt xỉ đa du đề.
4. Đát tha nghiệt đa mẫu đà la.
5. Địa sắt xá na, địa sắt xỉ đế, sa ha.
Quán
Đỉnh Chú:
1. Án.
2. Mâu nễ, mâu nễ, mâu nễ phiệt lệ.
3. A tỳ tru giả đô mê.
4. Tát bà đát tha nghiệt đa ma hồng Tôi tên là…
5. Tát bà bật tha gia tỳ sái kế.
6. Ma Ha bạt chiết la phiệt gia, mẫu đà la, mẫu địa lị để.
7. Đát tha nghiệt đa hiệt lật đà gia.
8. Địa sắt xỉ đa, bạt chiết lệ, sa ha.
Quán
Đỉnh Ấn Chú:
1. Án.
2. A mật lật đa phiệt lệ.
3. Phộc la phộc la.
4. Bát la phộc la tỳ du đề.
5. Hàm hàm.
6. Phán tra, phán tra.
7. Sa ha.
Kết
Giới Chú:
1. Án.
2. A mật lật đa phiệt lệ.
3. Nghiệt bà lạc sát ni.
4. A yết la sa ni.
5. Hàm hàm.
6. Phán tra, phán tra.
7. Sa ha.
Phật
Tâm Chú:
1. Án.
2. Tỳ ma lệ.
3. Xà gia phiệt để.
4. A mật lật đế.
5. Hàm hàm hàm hàm.
6. Phán tra, phán tra, phán tra, phán tra.
7. Sa ha.
Tâm
Trung Tâm Chú:
1. Án.
2. Bạt la bạt la.
3. Tâm bạt la.
4. Ấn địa lật gia.
5. Tỳ du đạt nễ.
6. Hàm hàm.
7. Tằng lô già lệ.
8. Sa ha.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Thần Chú này xong, liền bảo Đại Phạm rằng:
Nếu có ai tạm nghe Đà La Ni này thì tất cả mọi tội chướng của kẻ trai lành, người
nữ thiện ấy đều được trừ diệt.
Nếu hay tụng trì thì nên biết người ấy tức là thân của Kim Cương
Vajra kāya, lửa chẳng thể thiêu đốt được.
Này Đại Phạm! Ông nên biết việc này: Tại Đại Thành Ca Tỳ La
Kapila, lúc Đồng Tử La Hầu La Rāhula ở trong thai mẹ. Mẹ Ngài tên là Gia Du Đà
La Yaśodhara vốn là người nữ thuộc dòng tộc Thích Ca Śākya.
Khi bà bị ném vào hầm lửa thì lúc đó, La Hầu La đang nằm trong
thai mẹ, nghĩ nhớ đến Chú này, cho nên hầm lửa lớn kia liền biến thành ao hoa
sen. Đây là uy lực của Thần Chú này, do nhân duyên ấy mà lửa chẳng thể thiêu đốt
được.
Đức Phật bảo: Này Đại Phạm! Chất độc chẳng thể hại người ấy được.
Như ở thành Thiện Du có người con của vị Trưởng Giả Phong Tài Bhogavatī, khéo
trì tất cả Cấm Chú khác. Khi trì Chú lực nhiếp triệu Vua Rồng Đức Xoa Ca Takṣaka
lại quên Kết Giới Sīma bandhana.
Vị Long Vương ấy giận dữ nghiến răng gây tổn hại khiến cho người đấy
phải chịu khổ não lớn. Trong khoảng khắc, mệnh không có ai có thể cứu vãn được.
Ở trong cái thành ấy, có vị Ưu Bà Di UpĀsika: Cận Sự Nữ tên là Vô
Cấu Amala thường trì Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú này. Vị Ưu Bà
Di ấy khởi tâm đại từ bi, sinh lòng thương xót, liền đi đến nơi đó dùng Chú này
cứu chữa.
Bà mới tụng Chú một biến thì chất độc kia liền bị tiêu diệt làm
cho người ấy được hoàn lại Bản Tâm. Thời người con của Vị Trưởng Giả ở bên bà
Vô Cấu thọ trì Chú này, ghi nhớ tại tâm. Vì thế nên biết chất độc chẳng thể hại
được.
Lại nữa Đại Phạm! Ở thành Ba La Nại Vāraṇasī có vị Vua tên là Phạm
Thí. Lúc đó, vị Vua của nước lân cận có uy lực lớn, khởi bốn loại binh đến
chinh phạt Vua Phạm Thí. Khi bốn loại binh vào đến thành Ba La Nại thì Vua Phạm
Thí đã biết rồi.
Ngài ban sắc lệnh cho mọi người trong Thành rằng: Các ngươi đừng sợ
hãi! Ta có Thần Chú tên là Tùy Cầu Tức Đắc Đà La Ni. Thần Chú này có sức mạnh
hay đập nát kẻ địch với bốn loại binh.
Khi đó Vua Phạm Thí tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới sạch, viết chép
Chú này đeo ở trên thân rồi lao vào chiến trận. Một mình Vua giao tranh với giặc,
giáng phục bốn loại binh khiến chúng quy hàng Vua Phạm Thí.
Đại Phạm nên biết Đại Thần Chú này có uy lực lớn, được Như Lai ấn
khả, thường nên nhớ niệm. Nên biết sau khi Đức Phật nhập diệt thì Chú này rất lợi
ích cho chúng sinh.
Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người đeo Chú này, nên biết Như Lai dùng
sức thần thông ủng hộ cho người đó. Nên biết người đó là Thân của Như Lai. Nên
biết người đó là Thân của Kim Cương.
Nên biết người đó là Thân của Như Lai Tạng. Nên biết người đó là
con mắt của Như Lai. Nên biết người đó mặc áo giáp Kim Cương. Nên biết người đó
là Thân Quang Minh. Nên biết người đó là Thân Bất Hoại. Nên biết người đó hay tồi
phục tất cả oán địch. Nên biết hết thảy tội chướng của người đó đều được tiêu
diệt. Nên biết Chú đó hay trừ nạn khổ của địa ngục.
Đại Phạm nên biết, có vị Tỳ Kheo ít Tín Tâm, đối với Giới của Như
Lai có sự khuyết phạm, lại ăn trộm đồ vật của Tăng hiền tiền, vật của Tăng thường
trụ, vật của Tăng đi bốn phương mà dùng riêng cho mình. Sau này vị Tỳ Kheo đó bị
bệnh nặng chịu nhiều khổ não.
Lúc ấy có một vị Ưu Bà Tắc Upāsaka: Cận Sự Nam thuộc dòng Bà La
Môn Brāhmaṇa khởi đại từ bi, viết Thần Chú này, đeo dưới cổ vị Tỳ Kheo bị bệnh.
Khi đeo xong thì tất cả bệnh khổ thảy đều tiêu diệt. Sau khi hết thọ mệnh, vị Tỳ
Kheo này bị đọa vào Địa Ngục A Tỳ Avīci. Thi hài của vị Tỳ Kheo ấy được an táng
trong cái Tháp và để Thần Chú lên trên thi hài. Ngày nay cái Tháp của vị Tỳ
Kheo ấy còn tồn tại ở phía Nam của Thành Mãn Túc.
Vị Tỳ Kheo này tạm vào địa ngục thì hết thảy nỗi đau khổ của các kẻ
chịu tội đều được ngừng dứt, khắp mọi người đều an vui, hết thảy đám lửa trong
địa ngục cũng đều tiêu diệt.
Lúc đó, Ngục Tốt nhìn thấy hiện tượng đấy thì rất kinh ngạc lạ
lùng, liền đem việc ấy thưa trình với Vua Diêm La Yama rāja.
Thời Vua Diêm La bảo Ngục Tốt rằng: Đây là Xá Lợi thuộc thân đời
trước của bậc có uy đức lớn.
Các ngươi có thể đến phía Nam của thành Mãn Túc tìm xem có việc
gì?
Ngục Tốt nhận lệnh đi ngay, đầu đêm đến cái Tháp đó liền nhìn thấy
cái Tháp tỏa hào quang như đám lửa lớn. Nhìn vào trong Tháp thì thấy ở trên thi
hài của vị Tỳ Kheo có đặt Thần Chú Tùy Cầu Tức Đắc Đại Đà La Ni, lại có Chư
Thiên vây quanh thủ hộ. Lúc ấy, Ngục Tốt nhìn thấy sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn
của Chú này liền đặt tên hiệu cho cái Tháp đó là Tùy Cầu Tức Đắc Pratisāraḥ.
Bấy giờ Ngục Tốt quay trở về trình báo mọi việc đã nhìn thấy cho
Vua Diêm La. Vị Tỳ Kheo ấy nương theo sức mạnh của Chú này mà tội chướng đều trừ
diệt, liền được sinh về cõi Tam Thập Tam Thiên Trāyastriṃśa deva. Nhân vậy mà vị
Trời này có tên là Tùy Cầu Tức Đắc Thiên Tử Pratisāra devaputra.
Đại Phạm nên biết, nếu biết như Pháp viết chép Chú này, đeo giữ
trên Thân thì thường không có khổ não, lợi ích cho tất cả và trừ bỏ mọi sự sợ
hãi.
Lại nữa Đại Phạm! Như ở trong thành Tiêu A Nguỵ có vị Trưởng Giả
tên là Tỳ Lam Bà Vilambā. Kho tàng của ông đầy tràn, vàng bạc sung mãn, tiền của
lúa đậu cực nhiều. Vị Trưởng Giả ấy là một Thương Chủ, ông dong chiếc thuyền to
đi vào biển lớn.
Ở trong cái biển lớn ấy, gặp một con cá Đê Di Lê muốn phá hư thuyền.
Vị Vua Rồng trong biển lại sinh giận dữ, khởi sấm sét lớn, tuôn mưa đá cứng như
Kim Cương. Lúc đó, mọi người rất sợ hãi lo lắng.
Khi ấy, vị Thương Chủ bảo các Thương Nhân rằng: Các ông đừng sợ
hãi! Tôi có phương kế quyết định thoát khỏi ách nạn này.
Chúng Thương Nhân nói: Lành thay! Lành Thay!
Bấy giờ Vị Thương Chủ liền đúng như Pháp viết chép Chú này đặt
trên đầu cây phương. Tức thời con cá kia nhìn thấy chiếc thuyền này có vầng hào
quang lớn như đám lửa rực nên thoái lui. Các hàng Rồng kia nhìn thấy tướng ấy
liền khởi Tâm Từ. Khi ấy vị Thương Chủ với các Thương Nhân sinh Tâm cực vui vẻ
và đến được nơi cất chứa vật báu.
Vì thế, Đại Phạm! Nên chép Chú này đặt trên đầu cây phướng sẽ hay
trừ bỏ tất cả trận gió ác. Mọi hiện tượng rét lạnh chẳng đúng thời. Trời chợt nổi
mây đen tuôn mưa sương mưa đá … thảy đều ngừng dứt. Tất cả muỗi mòng, Hoàng
Trùng với các loài khác… ăn phá lúa mạ tự nhiên sẽ lui tan.
Tất cả giống thú ác, loài có nanh bén vuốt nhọn chẳng thể gây hại
được. Tất cả lúa mạ, hoa quả, cỏ thuốc đều được tăng trưởng. Quả trái có vị
ngon ngọt, chín mùi tuỳ theo thời. Các hàng Long Vương Nāga rāja giáng mưa đúng
thời tiết.
Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người mong cầu thì cần phải như Pháp viết
chép Chú này, ắt mọi điều cầu nguyện đều được thành tựu. Cầu con trai được con
trai, cầu con gái được con gái, khéo giữ gìn bào thai, đứa con trong thai được
an ổn, đủ ngày đủ tháng sinh sản an vui.
Đại Phạm nên biết, ở nước Ma Già Đà Magadha có vị Vua tên là Từ Mẫn
Thủ?
Pratisāra pāṇi. Lúc mới sinh ra, vị Vua ấy liền duỗi bàn tay phải
nắm lấy vú mẹ thì hai bầu vú của mẹ biến thành màu vàng ròng và tự tuôn chảy sữa.
Ở trong bàn tay của vị Vua đó lại tuôn ra vô lượng châu báu ban cho các chúng
sinh. Do nhân duyên ấy mà vị Vua ấy có tên là Từ Mẫn Thủ.
Vị Vua ấy không có con, vì muốn cầu con nên Vua thiết lập Hội Thí
to lớn cúng dường Chư Phật và các Tháp Miếu nhưng chẳng được như nguyện. Sau
đó, trong đêm vị Vua nằm mộng thấy Tĩnh Cư Thiên Tử Śuddhāvasa devaputra đi đến
bảo với Vua rằng: Đại Vương nên biết, có Đại Thần Chú tên là Tùy Cầu Tức Đắc. Đại
Vương có thể như Pháp viết chép rồi cho Đại Phu Nhân đeo dưới cổ ắt sẽ có con.
Lúc tỉnh giấc, vị Vua chờ đến sáng sớm liền như Pháp viết chép Đại
Thần Chú này và cho Phu Nhân đeo vào cổ. Tức thời bà có thai, đủ ngày đủ tháng
sinh ra một đồng tử có đầy đủ sắc tướng uy nghiêm thù thắng, ai nhìn thấy cũng
đều vui vẻ.
Đại Phạm nên biết, Thần Chú này có sức mạnh khiến cho mọi sự nguyện
cầu đều được vừa ý.
Lại nữa Đại Phạm! Khi Thiên Đế Thích Śakra đánh nhau với A Tu La
Asura, thời Thiên Vương Đế Thích đeo Thần Chú này nên Đế Thích Thiên Chúng chẳng
bị thương tổn, thường được thắng lợi quay về cung an ổn.
Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người đeo Thần Chú này trên Thân thì tất
cả Chư Phật đều dùng thần lực gia bị cho người ấy, là nơi mà các Bồ Tát đã khen
ngợi. Ở tất cả nơi, tất cả chỗ tranh tụng, luận bàn tranh cãi đều được chiến thắng,
thường không có bệnh tật, tất cả tai nạn thình lình chẳng thể gây hại được, Tâm
không có lo âu phiền muộn, luôn được Chư Thiên thủ hộ.
Nếu ai viết chép tám Đạo Chú này đeo giữ, tâm thường nhớ niệm thì
tất cả mộng ác, tướng ác, việc chẳng tốt lành chẳng thể phạm vào thân. Tùy Cầu
Tức Đắc Đà La Ni Thần Chú này được chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha hằng
hà sa đẳng Chư Phật cùng nhau tuyên nói, cùng nhau ấn khả, cùng nhau khen ngợi,
cùng chung hoan hỷ. Chú này có thế lực lớn, có đại uy quang, có công dụng lớn,
tất cả chúng Ma thảy đều bị giáng phục. Đại Thần Chú này rất khó có thể được.
Lại nữa Đại Phạm! Thời quá khứ có Đức Phật tên là Khai Nhan Hàm Tiếu
Ma Ni Kim Bảo Hách Dịch Quang Minh Xuất Hiện Vương Như Lai, ngồi trên Tòa Kim
Cương Vajrāsana trong Bồ Đề Trường Bodhi maṇḍa. Lúc mới thành Chính Giác thì có
vô ương số Ma Māra với các quyến thuộc Parivāra đến chỗ Phật ngự, hiện các thần
lực gây các chướng nạn, hiện các tướng ác, tạo hình sân nộ, tuôn mưa khí trượng
vũ khí, đao, gậy…
Bấy giờ Đức Thế Tôn điềm nhiên ngồi yên, dùng sức của căn lành hiền
thiện nhớ niệm Chú này. Vừa mới nhớ niệm xong thì các ma chúng ấy nhìn thấy ở
trong mỗi một lỗ chân lông của Đức Thế Tôn tuôn ra trăm ngàn vạn ức binh chúng,
thân mặc áo giáp, phóng ánh sáng lớn, du hành tự tại trên hư không, thời các ma
chúng bị mất thần thông, phải bỏ chạy tứ tán.
Lại nữa Đại Phạm! Ở thành Ô Thiền Na Ujayanī có vị Vua tên là Phạm
Thí. Lúc ấy có một người vì mạo phạm đến Nhà Vua nên bị xử tội chết. Vị Vua ban
lệnh đem tội nhân vào trong núi xử tử. Lúc Đao Phủ vung đao tính chém thì trước
kia tội nhân ấy có đeo Chú này ở cánh tay phải, do sức mạnh của Chú này mà cây
đao bị bốc lửa, tự nhiên tan hoại như bụi nhỏ.
Vị Pháp Quan nhìn thấy việc này xong thì kinh ngạc chưa từng có,
liền đến bạch với Vua, trình tấu đủ mọi việc.
Vị Vua bảo Pháp Quan rằng: Ở trong núi kia có hang Dạ Xoa, trong
hang đó có vô lượng Dạ Xoa trú ngụ. Ngươi có thể đưa tội nhân vào trong hang ấy.
Vị Pháp Quan vâng theo lời dạy, đem tội nhân đến hang. Khi các Dạ
Xoa đi đến muốn ăn thịt. Do uy lực của Chú này nên các nhóm Dạ Xoa đều nhìn thấy
thân thể của người đó tỏa ra ánh sáng rực rỡ, thời các Dạ Xoa liền đưa tội nhân
này ra bên ngoài hang động và cung kính lễ bái.
Khi ấy, vị Pháp Quan lại đem việc này trình tấu đầy đủ với Nhà
Vua.
Đức Vua lại bảo: Hãy đem tội nhân này ném xuống con sông lớn.
Vị Pháp Quan vâng lệnh ném người ấy xuống sông, nhưng tội nhân ấy
chẳng bị nước nhận chìm tựa như có mặt đất che phủ trên nước. Vị Pháp Quan lại
đem việc ấy khải tấu với Đại Vương.
Đức Vua rất kinh ngạc liền kêu tội nhân lên hỏi: Ngươi dùng điều
gì mà có thể thoát được nạn như vậy?
Tội Nhân đáp: Tâu Đại Vương! Thần không có cách giải thoát, chỉ nhờ
trên thân có đeo Thần Chú Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni thôi. Đức Vua
nghe xong, lấy làm lạ lùng, khen ngợi vô lượng.
Đức Phật bảo: Này Đại Phạm! Như các việc đã nói như trên, ông có
thể biết về sức mạnh của Thần Chú đó, đều nên viết chép đeo giữ trên Thân.
Lại bảo Đại Phạm: Nếu có người muốn đeo Chú này thì nên như pháp
mà viết chép.
Bấy giờ, Đại Phạm bạch với Đức Phật rằng: Thế Tôn! Nếu muốn viết
chép Chú này thì phải làm theo phép tắc nào?
Đức Phật bảo Đại Phạm: Trước tiên nên kết Đàn. Ở bốn góc Đàn đều đặt
một cái bình chứa đầy nước thơm. Bên trong Đàn vẽ làm hai Hoa Sen, hoặc
ba hoặc bốn hoặc năm đóa sen. Bốn mặt chung quanh đều tạo râu nhụy
hoa sen.
Lại làm một hoa sen hé nở lớn, cuối cọng hoa treo lụa đẹp.
Lại làm một hoa sen tám cánh, trên mỗi một cánh hoa làm một cây
kích Tam Xoa, trên cuối cọng hoa treo lụa đẹp.
Lại làm một hoa sen tám cánh, ở giữa tâm hoa làm một cái chày Kim
Cương, trên mỗi một cánh hoa cũng làm một cái chày, trên cuối cọng hoa ấy treo
lụa đẹp.
Lại làm một hoa sen tám cánh, trên mỗi một cánh hoa đều làm một
cây búa.
Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một cây đao, cuối cuống
hoa ấy cũng treo lụa đẹp.
Lại vẽ làm một cây kiếm, ở trên vỏ kiếm vẽ hoa, trên cuối cuống
hoa ấy cũng treo lụa đẹp.
Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một vỏ ốc Loa.
Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một sợi dây lớn Quyến
sách.
Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một trái châu rực lửa
Hỏa Diễm Châu.
Sau đó đốt hương, rải hoa, dâng thức ăn uống quả trái, mọi loại
cúng dường.
Nếu có người muốn viết chép, đeo Chú này, cần phải y theo Pháp kết
Đàn như vậy, còn phương pháp của Đàn khác chẳng được xen lẫn vào. Sai người viết
Chú, trước tiên phải tắm gội sạch sẽ mặc áo mới sạch, ăn ba loại Bạch Thực
là: Sữa, Lạc, cơm gạo tẻ. Không cứ là giấy, lụa, trúc, vải, các vật… mỗi loại đều
được phép dùng để viết chép Chú này.
Nếu có phụ nữ cầu sinh con trai thì dùng Ngưu Hoàng viết chép trên
tấm lụa. Trước tiên hướng bốn mặt viết Thần Chú này, bên trong vẽ một Đồng Tử
có báu Anh Lạc trang nghiêm cái cổ, bàn tay nâng một cái bát bằng vàng chứa đầy
châu báu. Lại ở bốn góc đều vẽ một thân Đồng Tử mặc áo giáp.
Lại làm mọi loại ẤN cho người đeo Chú này.
Nếu Chuyển Luân Vương đeo Chú này, thì ở trong tâm của Chú vẽ hình
Quán Thế Âm Bồ Tát Avalokiteśvara với hình Đế Thích Indra. Lại ở bên trên làm mọi
loại Phật Ấn, các Thiện Thần Ấn thảy khiến cho đầy đủ.
Lại ở bốn góc vẽ bốn vị Thiên Vương với mọi báu trang nghiêm đều y
theo Bản Phương Phương Vị của mỗi Tôn Nếu vị Tăng đeo Chú này thì ở trong tâm của
Chú vẽ một vị Kim Cương Thần Vajra dhāra với mọi báu trang nghiêm. Bên dưới vẽ
một vị Tăng chắp tay quỳ thẳng lưng. Vị Kim Cương duỗi bàn tay án trên đỉnh đầu
vị Tăng này.
Nếu Bà La Môn Brāhmaṇa đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Đại
Tự Tại Thiên Īśana.
Nếu Sát Lợi Kṣatriya đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Ma Hê
Thủ La Thiên Maheśvara.
Nếu Tỳ Xá Vaiśya đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Tỳ Sa Môn
Thiên Vương Vaiśravaṇa.
Nếu Thủ Đà Śūdra đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Chước Yết
La Thiên Na La Diên Thiên: Nārāyaṇa.
Nếu đồng nam đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Câu Ma La
Thiên Kumāra.
Nếu đồng nữ đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Ba Xà Ba Đề
Thiên Prajāpati: Sinh Chủ, tên của vị Phạm Thiên.
Từ đây trở lên là nghi tắc của người đeo Chú. Ở trong tâm của Chú
vẽ các Thiên.
Thần đều có hình trạng thiếu niên có diện mạo vui tươi.
Nếu có người muốn trì đeo Thần Chú này đều phải mỗi mỗi tự mình y
theo bản pháp.
Nếu phụ nữ mang thai đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Ma Ha
Ca La Thiên Mahā kāla: Đại Hắc Thiên với khuôn mặt màu đen.
Nếu có người treo Chú này trên cây phướng cao, thì nên ở nơi có địa
thế cao dựng một cây phướng cao. Ở trên đầu cây phướng đặt một trái Hỏa Diễm
Châu, lại đặt Thần Chú này ở bên trong trái châu ấy thì hết thảy các chướng ngại
ác với các bệnh dịch đều được tiêu diệt.
Nếu gặp lúc nắng hạn thì ở trong tâm của Chú vẽ một con Rồng chín
đầu.
Nếu lúc mưa quá nhiều cũng vẽ con Rồng chín đầu này và nên đặt
trong nước có Rồng ắt nắng hạn sẽ tuôn mưa, còn lúc mưa quá nhiều sẽ được quang
tạnh ngay. Nếu Thương Nhân đeo Thần Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ hình
Thương Chủ với các Thương Chúng đi theo, ắt đều được an vui.
Người trì Chú này, tự mình muốn đeo thì ở trong tâm của Chú vẽ một
Nữ Thiên, lại ở bên trong vẽ các vì sao Tinh Thần, Mặt Trời, Mặt Trăng.
Nếu Phàm Nhân đeo Chú này thì chỉ nên viết chép Chú này, rồi đeo
giữ.
Đức Phật bảo: Này Đại Phạm! Nếu các người hay như Pháp viết chép,
trì đeo thì thường được an vui… hết thảy việc đã làm đều được thành tựu. Đời
này an vui, đời sau sinh lên Trời, hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt. Người
thường thọ trì luôn được Chư Phật Bồ Tát hộ niệm. Ở trong giấc mộng thường được
nhìn thấy Phật, cũng được cả sự tôn kính của mọi người. Ông nên thọ trì khiến
cho lưu bố rộng rãi.
Đức Phật nói Kinh này xong thời Đại Phạm Thiên Vương nghe điều Đức
Phật đã nói, tâm rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.
KINH TÙY CẦU ĐẮC ĐÀ
LA NI TÂM PHẬT
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét