Thứ Ba, 18 tháng 4, 2023

NGHI CÚNG ĐẠI HỒNG CHUNG


NGHI CÚNG ĐẠI HỒNG CHUNG

ĐẠO TỔ => ĐỨC LÂM TỰ

********* O *********

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đốt hương trầm, đứng ngay ngắn chắp tay ngang ngực thầm niệm theo nghi thức dưới đây.)

Tịnh pháp giới chân ngôn:

Án lam tóa ha. (7 lần)

Tịnh tam nghiệp chân ngôn:

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

An Thổ Địa Chân Ngôn:

“Nam mô tam mãn đà, một đà nẫm:

Án, Độ-Rô Độ-Rô, Địa-Vĩ, Tá-Bà-Ha.” ( 3 lần )
(Chủ lễ thắp 3 cây hương, quỳ ngay ngắn nâng hương lên ngang trán niệm bài Cúng hương sau đây.)

Nguyện Hương:

Nguyện đem Lòng thành kính

Gởi theo Ấn mây hương

Phảng phất khắp mường phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thề trọn Đời giữ Đạo

Theo tự Tánh làm lành

Cùng Pháp Giới chúng sanh

Cầu Phật từ bi gia hộ

Tâm Bồ Đề kiên cố

Xa Bể khổ nguồn mê

Chóng quay về Bờ Giác….O….

Kỳ Nguyện:

Đương thời Trời Đất hạ sanh đệ tử :....cùng đại chúng Đạo Tràng Vạn An, ĐỨC LÂM TỰ thuộc Đạo Tổ, Vương Quốc Vạn An, Cung Trời Đâu Suất, Di Lạc Vương Cung, chúng con xin thực hành công phu Đại Hồng Chung, cầu cho cõi Dương và cõi Âm, những ai đang đau khổ trong các cõi, nhờ sức chú nguyện nầy, và thần lực của tiếng Đại Hồng Chung, mà thoát khỏi nơi đau khổ, mà hưởng được Hào Quang căn lành của Chư Phật, trong đại Vũ Trụ nầy.

( Cắm hương vào lư hương thờ Đại Hồng Chung )

Tán Phật

Pháp Vương vô thượng Tôn

Tam giới vô luân thất

Thiên Nhơn chi Đạo Sư

Tứ sanh chi Từ Phụ

Ư nhất niệm Quy Y

Năng diệt tam kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán thán

Ức kiếp mạc năng tận.

Quán Tưởng:

Năng lễ sở lễ tánh không tịch

Cảm ứng Đạo giao nan tư nghì

Ngã thử Đạo Tràng như đế châu

Thập phương Chư Phật ảnh hiện trung

Ngã thân ảnh hiện Chư Phật tiền

Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ

Chí Tâm Đảnh Lễ:

Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tận Hư Không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường Trụ Tam Bảo ( 1 lạy )

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Vương Phật, Nhật Quang biến chiếu Bồ Tát, Nguyệt Quang biến chiếu Bồ Tát, Cứu Thoát Bồ Tát, Dược Sư Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 1 lạy )

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh, Nam Mô Vô Cực Di Lạc Vương Tôn Phật, Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ đương lai hạ sanh Di Lạc Vương Tôn Phật, Nam Mô Bổn Sư Phật Hoàng Trần An Di Lạc Vương Tôn Phật, Nam Mô Đạo Tế hoạt Phật, Nam Mô nhật nguyệt quang Bảo Hoa hoạt Phật, Nam Mô Đại Trí Văn Thù Bồ Tát, Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Nam Mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát, Nam Mô Cửu Huyền Thất Tổ siêu thoát thành Phật. ( 1 lạy )

Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại lực đại Thế Chí Bồ Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ Tát ( 1 lạy )

Nguyện khai Đại Hồng Chung:

Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới

Thiết vi u ám tất giai văn

Văn trần thanh tịnh chứng viên thông

Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác …O….

Văn chung thinh phiền não khinh

Trí huệ trưởng Bồ Đề sanh

Ly đia ngục xuất hỏa khanh

Nguyện thành Phật độ chúng sanh…O…

Án, già ra đế ta bà ha ( 3 lần ) …O….

Tán dương chi:

Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhơn thiên
Pháp giới quảng tăng diên
Diệt tội tiêu khiên
Hỏa diệm hóa hồng liên.

Nam Mô Thanh Lương Địa giáng kiết tường Phật Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )

Chú Đại Bi :

Nam Mô Đại Bi hội thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần )

Thiên thủ Thiên nhãn vô ngại Đại bi Tâm Đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bác ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án. tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô yết đế thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì. hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng. a thệ dựng, tát bà tát đá na ma bà tát đa,na ma bà già. ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án! a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. cu lô cu lô yết mông. độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, Bồ đà dạ bồ đà dạ, Di đế rị dạ, na ra cẩn trì. địa rị sắc ni na, Ba dạ ma na. ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ. Ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, Ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đà ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 lần )

Khai Kinh Kệ :

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì

Nguyện giải Như-lai chân thiệt nghĩa.

Nam Mô khai Bảo Tạng Đại Hồng Chung giáng kiết tường Phật Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )

*** Vũ Trụ Khai thủ…

Hồng Chung sơ khấu,

Bảo kệ Cao Âm,

Thượng Thông Thiên Đường,

Hạ triệt Địa Phủ,

U Minh Giáo Chủ,

Cứu khổ Bổn Trôn,

Cứu Bạt Minh Đồ,

Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát …O…

*** Vũ Trụ Khai thủ…

Hồng Chung Nhị khấu,

Bảo kệ Cao Âm,

Thượng Thông Thiên Đường,

Hạ triệt Địa Phủ,

U Minh Giáo Chủ,

Cứu khổ Bổn Trôn,

Cứu Bạt Minh Đồ,

Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát …O…

*** Vũ Trụ Khai thủ…

Hồng Chung Tam khấu,

Bảo kệ Cao Âm,

Thượng Thông Thiên Đường,

Hạ triệt Địa Phủ,

U Minh Giáo Chủ,

Cứu khổ Bổn Trôn,

Cứu Bạt Minh Đồ,

Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát …O…

*** Thượng chúc Phật nhật tăng huy Pháp luân thường chuyển, phong điều vũ thuận, Quốc thới Dân an,Thiên Hạ thới bình, Nhân Dân An Lạc …O…

*** Tam Giới tứ sanh chi nội, Các miễn luân hồi, cửu hữu thập loại chi trung, tất ly khổ hải…O…

*** Ngũ Phong thập võ, Miễn tạo chi cơ cẩn chi niên, Nam Mẫu đông giao, câu triêm Nghêu Thuấn chi nhật …O…

*** Can qua vĩnh tức, Chiến mã hưu chinh, Địa lợi nhơn hòa, trận bại thương vong, cầu sanh Cực Lạc  …O…

*** Phi cầm tẩu thú, la võng bất phùng, lãng tử cô thương, tảo hường hương tỉnh …O…

*** Vô biên thế giới, địa cửu thiên trường, viễn cận đàn na, tăng viên Phước thọ…O…

*** Thiền môn hưng thịnh, Phật Pháp trường thăng, Thổ địa long thần, an tăng hộ pháp…O…

*** Phụ Mẩu Sư Trưởng, tồn vong tịnh lợi, Lịch đại Tổ nễ, đồng đăng bỉ ngạn …O…

*** Nam mô Thanh Tịnh Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật …O…

*** Nam mô Viên Mãn báo thân Lô Xá Na Phật…O…

*** Nam mô Thiên Bá Ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật …O…

 

*** Nam mô Vô Cực Di Lạc Vương Tôn Phật …O…

*** Nam mô Long Hoa Giáo Chủ đương lai hạ sanh Di Lạc Vương Tôn Phật …O…

*** nam mô Phật Hoàng Trần An Di Lạc Vương Tôn Phật …O…

*** Nam mô Tây Phương giáo chủ Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật …O…

*** Nam mô Ngũ Đài Sơn Đại Trí Văn Thù Bồ Tát …O…

*** Nam mô Nga Mi Sơn Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát …O…

*** Nam mô Phổ Đà Sơn Lưu Ly giới Đại Bi Quan THế Âm Bồ Tát …O…

*** Nam mô Tu Di Sơn đại hùng đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát …O…

*** Nam mô Cửu Hoa Sơn U Minh giới, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát …O…

*** Nam mô đại phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh, Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát …O…

*** Nam mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát …O…

Thập phương tam thế thất Như Lai…

Bát thập bát Phật tọa Bửu đài…

Lục Đạo chúng sanh mong thoát khổ…

Cửu U thập loại sát trần ai…

*** Nam mô siêu lạc độ giáng kiết trường Phật Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )…

Chú Ý: đọc một lần đánh 36 tiếng chuông, bài nầy

đọc 3 lần…tất cả 108 tiếng chuông…

Chung thinh cửu thập hựu Lôi chùy…

Tịnh diện Tăng Già đẳng đẳng tri…

Tham phong tứ thời tuân khổ chế…

Hạ đơn lưỡng bộ các oai nghi…

Nam mô đương sơn Bổn xứ Hộ Giới Hộ Giáo Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát …O…O…O..

Nam mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần )

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh…

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị khôngkhông tức thị sắcthọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnhbất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắcvô thọ tưởng hành thức.
Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô khổ, tập, diệt, đạo.
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bốviễn ly điên đảo mộng tưởngcứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phậty Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:

( Yết đế yết đếba la yết đếba la tăng yết đếbồ đề tát bà ha. ) 3 lần….

 

Vãng Sanh Cực Lạc Thần Chú:

Nam mô A Di Ða bà đạ

Ða tha dà đa dạ

Ða điệt dạ tha

A Di rị đô bà tỳ

A Di rị đa tất đam bà tỳ

A Di rị đa tỳ ca lan đế

A Di rị đa tỳ ca lan đa

Dà di nị, dà dà na

Chỉ đa ca lệ ta bà ha ( 3 lần )

Tán Phật:

A-Di-Ðà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân

Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di

Cám mục trừng thanh tứ đại hải.

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-Ðà Phật.

Nam-mô A-Di-Ðà Phật. ( 3 lần )

Nam-mô Ðại-Bi Quan-thế-âm Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Đại Lực Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Đại Nguyện Ðịa -Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Thanh-tịnh Ðại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

Sám Thập Phương:

Thập phương Tam-thế Phật

A-Di-Đà đệ nhứt,

Cửu phẩm độ chúng-sanh

Oai-đức vô cùng cực,

Ngã kim đại quy-y.

Sám-hối tam nghiệp tội,

Phàm hữu chư phước thiện,

Chí tâm dụng hồi-hướng.

Nguyện đồng niệm Phật nhơn,

Cảm ứng tùy thời hiện,

Lâm chung Tây-phương cảnh,

Phân-minh tại mục tiền,

Kiến văn giai tinh tấn,

Đồng sanh Cực-lạc quốc,

Kiến Phật liễu sanh-tử,

Như Phật-độ nhứt-thiết,

Vô-biên phiền-não đoạn,

Vô-lượng pháp môn tu;

Thệ nguyện độ chúng-sanh,

Tổng giai thành Phật đạo;

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

SÁM PHỔ HIỀN THẬP ĐẠI NGUYỆN


Đệ tử chúng đẳng,
Tùy thuận tu tập,
Phổ Hiền Bồ-tát,
Thập chủng đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như lai,
Tam giả quảng tu cúng dường,
Tứ giả sám hối nghiệp chướng,
Ngũ giả tùy hỉ công đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng sinh,
Thập giả phổ giai hồi hướng…O…

Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú

Nẳng mồ tam mãn đa mẫu đà nẩm.

Á bát ra để hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha.
Án khê khê khê hế khê hế hồng hồng,

nhập phạ ra, nhập phạ ra
bát ra nhập phạ ra,bát ra nhập phạ ra
để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị
ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ
ta phạ ha. ( 3 lần )

*** Nguyện trú kiết tường dạ kiết tường

Trú dạ lục thời hằng kiết tường

Nhất thiết thời trung kiết tường giã

Nguyện Chư Thượng Sư ai nhiếp thọ…O….

*** Nguyện trú kiết tường dạ kiết tường

Trú dạ lục thời hằng kiết tường

Nhất thiết thời trung kiết tường giã

Nguyện Chư Tam Bảo ai nhiếp thọ…O….

*** Nguyện trú kiết tường dạ kiết tường

Trú dạ lục thời hằng kiết tường

Nhất thiết thời trung kiết tường giã

Nguyện Chư Hộ Pháp thường ủng hộ…O….

Nam mô tiêu tai giáng kiết tường Phật Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )

Hồi Hướng:

Phúng kinh Đại Hồng Chung

công-đức thù thắng hạnh,

Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,

Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,

Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát…O…

Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,

Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.

Thế thế thường hành Bồ-tát Đạo…O…

Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,

Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,

Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ…O…

Nguyện dĩ thử công-đức,

Phổ cập ư nhứt thiết,

Ngã đẳng dữ chúng-sanh,

Giai cộng thành Phật-Đạo…O…

Phục Nguyện Cầu Siêu:

Tam bảo chứng minh,

Oai thần hộ niệm,

Bồ tát Thinh văn,

Phạm vương Đế Thích,

Tứ Thiên Vương, Chúng

Thiên Long, Bát bộ

Hộ pháp thần vương,

Nhất thiết thiện thần

Đồng thùy chứng minh

Gia hộ. Ðệ-tử chúng đẳng,

Cung tựu Phật tiền,

Phúng tụng Ðại-thừa kinh chú,

Cập niệm Phật công đức,

Xe Tam Thừa lộng lẫy,

Thuyền Bát Nhã thênh thang,
Chốn Giáo đường dốc ngược đèo ngang,

Khắp ba cõi sông mê lặn hụp,
Thảm nỗi oan khiên lắm lúc,

Các Vong linh lạc đường sái lộ.

Kể từ nay giác ngộ vãng sanh.
Nguyện cho các vong linh…bảy đời chín kiếp Cửu Huyền Thất Tổ, Ông bà cha mẹ nội ngoại bốn bên, cô bác lớn nhỏ, trăm oan ngàn triệu ức, say sông say suối, đầu gềnh cuối bể, đi sớm về tối, mau đặng an lành, nghe kinh kệ, siêu sanh cực, vượt qua biển khổ, thoát khỏi ta bà, sen vàng chín phẩm nở ra, pháp thân hiện Mi Đà thọ ký…

Đàn na tín thí, tăng ích phước điền, Âm siêu Dương thới, sóng Tịnh Biển êm, khắp hết chúng sanh, đồng về quê hương, đồng thành Phật Đạo…

Trên bảo tọa khói hương nghi ngút,
Tấm lòng thành nhiệt huyết từ đây,
Mây lành năm sắc phủ vây,
Chở che nhơn loại lắm thay oan hồn.
Vẫn biết chữ “tử qui, sanh ký”,
Người trần ai, ai dễ sống lâu,
Nhưng vì nghĩa nặng ơn sâu,
Thương tình đồng loại với nhau một giòng.

Sanh bất hạnh nhằm đời mạt kiếp,

Chịu trăm bề sống khổ biết bao,

Sống thời vất vã lao đao,

Chết không toàn thể thây giao tử thần,

Nay chúng con hết lòng cầu khẩn,

Xin Phật từ bi cứu độ Vong Linh,

Nguyện cho các vong linh…

bảy đời chín kiếp

Cửu Huyền Thất Tổ,

Ông bà cha mẹ nội ngoại bốn bên,

cô bác lớn nhỏ,

trăm oan ngàn triệu ức,

say sông say suối,

đầu gềnh cuối bể,

đi sớm về tối, mau đặng an lành

và các vong linh, các hương linh,

đọc họ tên:….pháp danh…

Ngày…tháng ….năm sinh…

Ngày …Tháng…năm chết…

Hưởng thọ ( dương )… tuế..

Địa chỉ:….

các hương linh chiến sỉ trận vong,

Các hương linh đồng bào tử nạn,

Cậu trạng đồng cô, hữu danh vô vị,

Hữu vị vô danh, những oan gia oan hồn trái chủ..

Siêu sanh cực lạc, nhất thành thượng đạt,

Vạn tội băng tiêu,

nguyện hương linh đác độ cao siêu,

hàm triêm lợi lạc,
Ngưỡng nhờ Chư Phật cao minh,

Xót thương nhân loại phù sinh vô thường,

Hễ có sinh là có bi thương,

Luân hồi lắm nẽo tai ương,

Hữu hình hữu loại vô thường,

Có không không có là phường phù du,

Dù tài sắc trăm năm vẫn thế,

Kiếp phù sinh há dễ sống lâu,

Oan hồn trôi nỗi đâu đâu,

Rán nghe kinh kệ ngỏ hầu siêu thăng,

Xin kiếp đến quy y tam bảo,

Nước nhành dương rửa sạch Lòng trần,

Gội nhuần Phật Đức thâm ân,

Bao nhiêu tội chướng cũng lần tiêu tan,

Nay hết lúc hồn vướn ảo ảnh,

Kiếp trở về thăng cảnh quê hương,

Oan hồn nương khói hương thơm,

Tiêu diêu Cực Lạc sớm hôm an nhàn…..

Phục nguyện cầu an:

Tam Bảo Chứng Minh,

Oai thần hộ niệm

Thượng lai hiện tiền,

Đệ tử chúng đẳng,

Phúng tụng đại thừa,

Pháp Bảo Tôn Kinh,

Thành tâm chú nguyện, kỳ an cho….

Hiện tiền phước thọ,

khương ninh chư tai tiêu diệt,

Thân tâm thanh tịnh,

Tội chướng tiêu trừ,

Tội diệt phước sanh,

Thiện căn tăng trưởng,

Tự tha hạnh nguyện,

Tốc đắc viên thành,

Âm siêu dương thới,

Pháp giới chúng sanh,

Đều tròn thành Phật Đạo.

Phổ nguyện

Xuân đa các Khánh

Hạ Bảo Bình An

Thu Tống Tam Tai

Đông nghinh bá Phước.

Ký cánh:

Cửu Huyền Thất Tổ

Đồng đăng hoa tạng huyền môn

Bát nạn tam đồ

Cộng chứng Bồ Đề Phật Đạo.

Nam Mô A Di Đà Phật…

Mô Phật Đạo Tổ Trừ Bi giáng kiết trường Phật Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )

Tam Tự Quy Y.

*** Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy)

*** Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)

*** Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)

Hòa Nam Thánh Chúng

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật Đạo…

 

Biên soạn: Geshe Rinpoche: Quảng An

 














 

Thứ Tư, 12 tháng 4, 2023

KINH TÙY CẦU ĐẮC ĐÀ LA NI..


KINH TÙY CẦU ĐẮC ĐÀ LA NI

Tôi Nghe như vầy!

Một thời Đức Bà Già Bà Bhagavaṃ: Thế Tôn ngự tại núi Kỳ Xà Quật ở Đại thành Vương Xá cùng với các đệ tử dự hội nói pháp.

Bấy giờ vị Đại Phạm Thiên Vương là Chủ của Thế Giới Sa Bà đến chỗ Phật ngự nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, chắp tay hướng về Đức Phật rồi bạch Phật rằng: Nguyện xin Đức Thế Tôn vì lợi ích cho chúng sinh, nói Đà La Ni Thần Chú khiến cho khắp cả Trời Người được an vui.

Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Đại Phạm Thiên Vương! Ông hay thương xót tất cả chúng sinh mà hỏi về việc lợi ich này.

Ông hãy suy nghĩ cho khéo! Ta sẽ vì ông mà phân biệt diễn nói.

Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú này hay ban cho tất cả chúng sinh sự an vui tối thắng. Chẳng bị tất cả Dạ Xoa Yakṣa, La Sát Rākṣasa với bệnh điên loạn Unmāda, Quỷ Đói Preta, Quỷ Tắc Kiến Đà Skandha, các hàng quỷ thần gây não hại, cũng chẳng bị bệnh nóng lạnh xâm tổn.

Ở nơi cư ngụ luôn luôn được thù thắng, chẳng bị sự xâm hại bởi đấu chiến oán thù, lại hay đập tan kẻ địch, chú trớ yểm đảo chẳng có thể làm hại, tội của nghiệp trước đều được tiêu diệt. Chất độc chẳng thể gây hại, lửa chẳng thể thiêu đốt, đao chẳng thể gây thương tích, nước chẳng thể cuốn chìm. Chẳng bị sấm sét lôi điển, phích lịch gió ác mưa bão không đúng thời … gây tổn hại.

Nếu có người thọ trì Thần Chú này thì nơi cư ngụ được thù thắng. Nếu có thể viết chép Thần Chú rồi đeo trên cổ hoặc cột trên cánh tay thì người đó hay thành tất cả việc thanh tịnh tối thắng. Thường được Chư Thiên Devānāṃ, Long Vương Nāgarāja ủng hộ. Lại được Chư Phật Buddhānāṃ, Bồ Tát Bodhisatva nghĩ nhớ.

Kim Cương Mật Tích Vajra guhyaka, Tứ Thiên Đại Vương Catvāsraḥ mahā rājikāḥ: bốn vị Đại Thiên Vương Thiên Đế Thích Indra, hay Śakra, Đại Phạm Thiên Vương Maha brahma deva rāja, Tỳ Nữu Thiên Viṣṇu, Đại Tự Tại Thiên Maheśvara, Câu Ma La Quân Chúng Kumāra sena gaṇa, Tỳ Na Dạ Ca Vināyaka, Đại Hắc Thiên Mahā kāla, Nan Đề Kê Thuyết Thiên Nāndikeśvara … ngày đêm thường theo ủng hộ người trì Chú này.

Lại được Ma Đế Kiến Noa Mātṛ gaṇa, Thiên chúng Deva gaṇa với các Thiên Thần Chúng Devatā gaṇa, Tự Tại Īśvara khác cũng ủng hộ như vậy. Lại được các Ma Māra, Thiên chúng với các quyến thuộc.

Chư Thần, bậc có Uy Đức lớn của Thần Chú là: Ương Câu Thi Thần Aṃkuśe, Bạt Chiết La Thần Vajra, Thương Yết La Thần Śaṃkhara, Ma Mạc Kê Thần Māmakī, Tỳ Câu Tri Thần Bhṛkuṭi, Đa La Thần Tārā, Ma Ha Ca La Thần Mahā kāla, Bộ Đa Thần Bhāta, Chước Yết La Ba Ni Thần Cakra pāṇi, Đại Lực Thần Mahā bala, Trường Thọ Thiên, Ma Ha Đề Tỳ Thần Mahā devī.

Ca La Yết Ni Thần, Hoa Xỉ Thần Puṣpa danti, Ma Ni Châu Kế Thần, Kim Kế Thần, Tân Nghiệt La La Khí Thần, Điện Man Thần, Ca La La Lợi Thần, Tỳ Câu Tri Thần Bhṛkuṭi, Kiên Lao Địa Thần Dṛḍha prthivī, Ô Đà Kế Thi Thần, Thập Phiệt Lật Đa Na Na Thần, Đại Nộ Thần Mahā krodha.

Chấp Kiếm Thần Khaḍga dhāra, Ma Ni Quang Thần Maṇi prabha, Xà Tri Ni Thần Jaṭini, Nhất Xà Tra Thần Eka jaṭa, Phật Đà Đà La Ba Lợi Ni Thần Buddha dhara pàlani, Lăng Kê Thuyết Thần Laṅkeśvara và vô lượng các Thiên Thần Devatā khác … các Thiên chúng ấy đều đến ủng hộ.

Nếu Thần Chú này được đeo trên thân, bàn tay… thì Quỷ Tử Phụ Mẫu Hāṛtye và Pañcika, Ma Ni Bạt Đà Thần Maṇi bhadra, Lực Thiên Bala deva, Đại Lực Thiên Mahā bala deva, Thắng Khí Ni Thần Saṃkhini, Câu Tra Đàn Để Thần Kuṭa danti, Công Đức Thiên Śrī, Đại Biện Thiên Sarasvatī … luôn luôn đi theo ủng hộ.

Nếu có người nữ nào thọ trì Thần Chú này sẽ có thế lực lớn, thường sinh con trai. Lúc thọ thai thì thai sẽ được an ổn, khi sanh sản được an vui, không có các bệnh tật, mọi tội tiêu trừ, quyết định không nghi. Do sức của phước đức mà tiền của, lúa gạo được tăng trưởng. Lời bảo ban khiến cho người đều tin nhận. Thường được tất cả điều cung kính, nên phải khiết tịnh trong sạch tinh khiết.

Nếu có người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ trì chú này sẽ được an vui, không có bệnh tật, mọi tội tiêu trừ, sắc tướng đẹp đẽ mạnh khoẻ, viên mãn cát tường, phước đức tăng trưởng.

Nếu có người nam, hoặc người nữ, đồng nam, đồng nữ… Trì Chú này sẽ được an vui, không có bệnh tật, mọi tội tiêu trừ, sắc tướng đẹp đẽ mạnh khoẻ, viên mãn cát tường, phước đức tăng trưởng, tất cả Chú Pháp đều được thành tựu.

Người đeo Chú này tuy chưa vào Đàn, liền thành người đã vào tất cả Đàn, cùng đồng hạnh với người đã vào Đàn, chẳng bị ác mộng, tội nặng tiêu diệt. Nếu có kẻ khởi Tâm ác hướng đến thỉ chẳng thể làm hại cho người trì Chú này được. Tất cả lạc dục mong cầu đều được thành tựu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói Chú là:

1. Na mâu tát bà đát tha nghiệt đa nẵng.

2. Na mâu bột đà đạt ma tăng chi biều

3. Án .

4. Tỳ bổ la nghiệt bệ.

5. Tỳ mạt lê xà gia nghiệt bệ.

6. Phiệt chiết la thời phộc la nghiệt bệ.

7. Nghiệt để già ha nê.

8. Già già na tỳ du đạt nê.

9. Tát bà bả ba tỳ du đạt nê.

10. Án 

11. Cù noa bạt để.

12. Già già lị ni.

13. Kỳ lị kỳ lị.

14. Già mạt lị.

15. Già ha già ha.

16. Già nghiệt lị già nghiệt lị.

17. Già già lị, Già già lị.

18. Kiềm bà lị, Kiềm bà lị.

19. Nghiệt để, nghiệt để.

20. Già mạt nê già lị.

21. Cù lô cù lô, Cù lô ni.

22. Chiết lệ chiết lệ, mâu chiết lệ.

23. Thệ duệ, tỳ thệ duệ.

24. Tát bà bà gia tỳ nghiệt để.

25. Nghiệt bà tam bà la ni.

26. Bỉ lị tỷ lị 

 27. Dĩ lị dĩ lị 

 28. Tam mạn đa ca lị sa ni.

29. Thiết đổ tăng bát la mạt tha nễ.

30. Lạc xoa lạc xoa ma ma Tôi tên là…

31. Tỳ lị tỳ lị.

32. Tỳ nghiệt đa phiệt la ni.

33. Bà gia bà xả tô lị tô lị.

34. Chất lý ca mạt lệ.

35. Thị duệ.

36. Thị gia bà hê.

37. Thị gia bà để.

38. Bà già bạt để.

39. Hạt la đát na ma câu tra ma la đạt lị.

40. Tỳ chất đa la bệ sa ba đà lị ni.

41. Bà già bạt để tất địa gia đệ tỳ.

42. Lạc xoa đô ma. Tôi tên là …

43. Tam mạn đa ca la tỳ du đạt nễ.

44. Hô lô hô lô .

45. Nhược sát đát tả ma la đà lị ni.

46. Chiên noa chiên noa chiên ni.

47. Bệ già bạt đế.

48. Tát bà đột sắt tra nễ bà la ni.

49. Thiết đốt lỗ bát xoa bát loa mạt tha nễ.

50. Tỳ xà gia bà tứ.

51. Hổ lô hổ lô.

52. Mẫu lô mẫu lô.

53. Chu lô chu lô.

54. A dữu ba thư nễ.

55. Tô la bà la ma thát nễ.

56. Tát bà đề bà đa bổ thị để.

57. Địa lị địa lị.

58. Tam mạn đa bà lô cát đế.

59. Bát la bệ.

60. Tô bát la bà du nễ.

61. Tát bà bả ba tỳ du đạt nễ.

62. Đà la đà la đà la ni.

63. Bạt la đà lệ.

64. Tô mẫu tô mẫu.

65. Tô mẫu lô chiết lệ.

66. Chiết lệ giá la gia đột sắt tra.

67. Bộ la gia a thưởng.

68. Thi lị bà bô đà la chiết gia ca mạt lệ.

69. Khí sử ni khí sử ni.

70. Tát bà đề ba đa bà la đà tả câu thí.

71. Án .

72. Bát đặc ma tỳ du đề.

73. Du đạt nễ du đề.

74. Bà la bà la.

75. Tỳ lị tỳ lị.

76. Bộ lô bộ lô.

77. Mãng ngải la nhiếp bật đề.

78. Bạt bậc đa la mục khế.

79. Khương ca lị.

80. Khư la khư la.

81. Thời phộc lật đa thất lệ.

82. Tam mạn đa bát la tát lị đa bà bà chí đa du đề.

83. Thời phộc la thời phộc la.

84. Tát bà đề bà đề noa tam ma yết lị sa ni.

85. Tát để gia phiệt để.

86. Đát la đát la.

87. Na già tỳ lô yết nễ.

88. La hô la hô.

89. Hô nỗ hô nỗ.

90. Sát ni sát ni.

91. Tát bà nghiệt la ha bạc sát ni.

92. Thỉ nghiệt la thỉ nghiệt la.

93. Chu mẫu chu mẫu, tô mẫu tô mẫu.

94. Tỳ chiết lệ.

95. Đát la đát la.

96. Đa la gia đổ ma Tôi tên là… Tả. Ma Ha bội gia.

97. Tam mâu đạt la, sa già la, bát lị diễn đa, ba đa la, già già na.

98. Sa man để na.

99. Bạt chiết la thời phộc la tỳ du đạt nễ.

100. Bộ lị bộ lị.

101. Nghiệt bà phiệt để nghiệt bà tỳ du đạt nễ.

102. Câu khí sử tam bộ la ni.

103. Xà la giá la xà lật nễ.

104. Bát la phiệt lị sa đổ đề bà sa mạn đế na.

105. Điệt tỳ dụ đà kế na.

106. A mật lật đa phiệt lị sa ni.

107. Đề ba đa bà đa lật ni.

108. A tỳ tru giá đổ mê.

109. A mật lật đa bạt la bà bộ sái.

110. Lạc xoa, lạc xoa ma ma. Tôi tên là… tả.

111. Tát bà đát la.

112. Tát bà đà.

113. Tát bà bà duệ biều.

114. Tát bồ ô ba đạt la bệ biều.

115. Tát bồ ô bát tát kỳ biều.

116. Tát bà đột sắt tra bà duệ tỳ đát tả.

117. Tát bà yết lị yết la ha.

118. Tỳ yết la ha Tỳ Bà đà.

119. Đột táp phạp bát na.

120. Đột lật nễ mật đa, a mãng ngải lược dạ.

121. Bả ba tỳ na thiết nễ.

122. Tát bà dược phu la sát sa nễ bà la ni.

123. Sa la ni tát lệ.

124. Bà la bà la.

125. Bà la bạt để.

126. Xà gia xà gia đổ ma. Tôi tên là…Tả 

127. Tát bà đát la.

128. Tát bà ca lam.

129. Tất đoạn đổ bật địa gia sa đà gia.

130. Tát bà mạn trà la sa đạt nễ.

131. Xà gia tất đề.

132. Tất đề, tô tất đề.

133. Tất đà gia tất đà gia.

134. Bột địa gia, bột địa gia.

135. Bô la ni, bô la ni.

136. Tát bà bật địa gia địa nghiệt đá mẫu lật đê.

137. Xà du đát lệ xà gia bạt để.

138. Sắt xá để.

139. Để sắt xá để sắt xa.

140. Tam muội gia ma nỗ ba lại gia.

141. Đát tha nghiệt đa du đề.

142. Tỳ gia bà lô ca gia đô ma Tôi tên là…Tả 

143. A sắt tra bật hiệt lam, Ma Ha bà gia đà lỗ ni.

144. Tát la tát la.

145. Bát la tát la, bát la tát la.

146. Tát bà phiệt la noa tỳ du đạt nễ.

147. Tam mạn đa ca la man trà la du đề.

148. Tỳ nghiệt đê, tỳ nghiệt đê.

149. Tỳ nghiệt đa mạt lê du đạt nễ.

150. Khí sử ni, khí sử ni.

151. Tát bà bạt ba tỳ du đề.

152. Mạt la tỳ du đề.

153. Đế xà bạt để, bạt chiết la bạt để.

154. Đề lệ lô chỉ gia địa sắt xỉ để, sa ha.

155. Tát bà đát tha nghiệt đa mẫu la đà tỳ sắc ngật để, sa ha.

156. La bà Bồ Đề tát đỏa, tỳ sắc ngật để, sa ha.

157. Tát bà đề bà đa, tỳ sắc ngật đề, sa ha.

158. Tát bà đát tha nghiệt đa hiệt lật đà lệ, địa sắt xỉ để, sa ha.

159. Tát bà đát tha nghiệt đa Tam Muội gia tất đệ, sa ha.

160. Ấn điệt lệ, ấn đà la bạt để, ấn đà la tỳ gia bà lô cát để, sa ha.

161. Bột la ế mê, bột la ế mê, bột la ha ma địa du sắt để, sa ha.

162. Tỷ sắt nỗ na ma tất cát lật để, sa ha.

163. Ma hê thấp phộc la na ma tất cát lật để, sa ha.

164. Bạt chiết la đà la, bạt chiết la ba ni, bà la tỳ lê gia, địa sắt xỉ để, sa ha.

165. Tiểu lị để la sắt tra la gia, sa ha.

166. Tỳ lô trà ca gia, sa ha.

167. Tỳ lô ba xoa gia, sa ha.

168. Bùi thất la mãn noa gia, sa ha.

169. Chiết đốt lặc Ma Ha la xà, na ma tất cát lật đa gia, sa ha.

170. Bà lỗ noa gia, sa ha.

171. Na già tỳ lô chỉ đa gia, sa ha.

172. Đề bà nghiệt nãi biều, sa ha.

173. Na già nghiệt nãi biều, sa ha.

174. Dược xoa nghiệt nãi biều, sa ha.

175. Kiện đạt bà nghiệt nãi biều, sa ha.

176. A tô la nghiệt nãi biều, sa ha.

177. Già lỗ trà nghiệt nãi biều, sa ha.

178. Khẩn Na La nghiệt nãi biều, sa ha.

179. Ma hô la già nghiệt nãi biều, sa ha.

180. Hạt la sát sa nghiệt nãi biều, sa ha.

181. Ma nỗ sái biều, sa ha.

182. A ma nỗ sái biều, sa ha.

183. Tát bà già lạc hê biều, sa ha.

184. Tát bà bộ để biều, sa ha.

185. Bế lệ để duệ biều, sa ha.

186. Tất xá chế biều, sa ha.

187. Ang ba tát ba lệ biều, sa ha.

188. Cát lý nãi biều, sa ha.

189. Án.

190. Độ lô độ lô, sa ha.

191. Đổ lô đổ lô, sa ha.

192. Mâu lô mâu lô, sa ha.

193. Ha na tát bà thiết đổ lỗ ấp ma ma tả, sa ha.

194. Đà ha đà ha tát bà đột sắt tra, bát la đột sắt tra, ma ma. Tôi tên là… tả, sa ha.

195. Bát già bát già tát bà bát la để gia thiết ca, bát la để gia mật đa la, ma ma. Tôi tên là… tả, sa ha.

196. Thời phộc lật đa gia, sa ha.

197. Bát la thời phộc lật đa gia, sa ha.

198. Địa bát đa thời phộc la gia, sa ha.

199. Tam mạn đa bát la thời phộc lật đa gia, sa ha.

200. Ma ni bạt đạt la gia, sa ha.

201. Bố lật noa bạt đà la gia, sa ha.

202. Ma Ha ca la gia, sa ha.

203. Ma để lị già noa gia, sa ha.

204. Dược khất sử ni ấp, sa ha.

205. Hạt la sát tư ấp, sa ha.

206. A ca xa ma để ấp, sa ha.

207. Tam mãn đạt la nễ bà tất nễ ấp, sa ha.

208. Hạt la để lị chiết lam, sa ha.

209. Địa bà sa chiết lam, sa ha.

210. Để lị tán địa gia chiết lam, sa ha.

211. Bệ la chiết lam, sa ha.

212. A bệ la chiết lam, sa ha.

213. Hạt bà chiết lệ biều, sa ha.

214. Hạt bà tán đà la ni, hô lô hô lô, sa ha.

215. Án, sa ha.

216. Tát bà, sa ha.

217. Bộ phiệt, sa ha.

218. Bộ lỗ bộ phiệt, sa ha.

219. Chất tán chất tán, sa ha.

220. Phí tán phí tán, sa ha.

221. Đà la ni, sa ha.

222. Đà la ni, sa ha.

223. Ác kỳ nễ, sa ha.

224. Đế thù bà bố, sa ha.

225. Chỉ lý chỉ lý, sa ha.

226. Tỷ lý tỷ lý, sa ha.

227. Bột địa gia, bột địa gia, sa ha.

228. Mạn trà la tất địa duệ, sa ha.

229. Mạn trà la bạn đà duệ, sa ha.

230. Tư ma bạn đạt ni, sa ha.

231. Chiêm bà chiêm bà, sa ha.

232. Tất đam bà, tất đam bà, sa ha.

233. Sân đà, sân đà, sa ha.

234. Tần đà tần đà, sa ha.

235. Bạn đà bạn đà, sa ha.

236. Mâu hối già mâu hối già, sa ha.

237. Ma ni tỳ dụ đề, sa ha.

238. Tố lật duệ, tố lật duệ, tô lị gia, tỳ dụ đề, sa ha.

239. Chiến điệt lệ, tô chiến điệt lệ, bố lật noa chiến điệt lệ, sa ha.

240. Nhạ sát đa la gia, sa ha.

241. Thất phệ, sa ha.

242. Phiến để duệ, sa ha.

243. Tô phộc tất để dã, dã nễ, sa ha.

244. Thi phạm yết lị, phiến để yết lị, bố sắt trí bạt lạt đà nễ, sa ha.

245. Thất lị yết lệ, sa ha.

246. Thất lị gia bạt lị đà nễ, sa ha.

247. Thất lị gia thời phộc la nễ, sa ha.

248. Na mâu chi, sa ha.

249. Ma lỗ chi, sa ha.

250. Bệ già phiệt để, sa ha.

Chú Nhất Thiết Phật Tâm Chú:

1. Án. 

2. Tát bà đát tha nghiệt đa mộ lật đế.

3. Bạt la phiệt la nghiệt đa bà duệ.

4. Xa ma diễn đổ ma ma. Tôi tên là… tả, tát bà bả bế biều.

5. Sá tất để la bà phiệt đổ.

6. Mâu chi, mâu chi, tỳ mâu chi.

7. Giá lị, giá lị, giá la nễ.

8. Nghiệt đế.

9. Bà đà la nãi.

10. Bộ địa bộ địa.

11. Bộ đà gia, bộ đà gia.

12. Bột địa lợi, bột địa lam.

13. Tát bà đát tha nghiệt đa hiệt lật đà gia.

14. Thụ sắt lai.

15. Sa ha.

Nhất Thiết Phật Tâm Ấn Chú:

1. Án.

2. Bạt chiết la bạt để.

3. Bạt chiết la bát la để sắt xỉ đa du đề.

4. Đát tha nghiệt đa mẫu đà la.

5. Địa sắt xá na, địa sắt xỉ đế, sa ha.

Quán Đỉnh Chú:

1. Án.

2. Mâu nễ, mâu nễ, mâu nễ phiệt lệ.

3. A tỳ tru giả đô mê.

4. Tát bà đát tha nghiệt đa ma hồng Tôi tên là…

5. Tát bà bật tha gia tỳ sái kế.

6. Ma Ha bạt chiết la phiệt gia, mẫu đà la, mẫu địa lị để.

7. Đát tha nghiệt đa hiệt lật đà gia.

8. Địa sắt xỉ đa, bạt chiết lệ, sa ha.

Quán Đỉnh Ấn Chú:

1. Án.

2. A mật lật đa phiệt lệ.

3. Phộc la phộc la.

4. Bát la phộc la tỳ du đề.

5. Hàm hàm.

6. Phán tra, phán tra.

7. Sa ha.

Kết Giới Chú:

1. Án.

2. A mật lật đa phiệt lệ.

3. Nghiệt bà lạc sát ni.

4. A yết la sa ni.

5. Hàm hàm.

6. Phán tra, phán tra.

7. Sa ha.

Phật Tâm Chú:

1. Án.

2. Tỳ ma lệ.

3. Xà gia phiệt để.

4. A mật lật đế.

5. Hàm hàm hàm hàm.

6. Phán tra, phán tra, phán tra, phán tra.

7. Sa ha.

Tâm Trung Tâm Chú:

1. Án.

2. Bạt la bạt la.

3. Tâm bạt la.

4. Ấn địa lật gia.

5. Tỳ du đạt nễ.

6. Hàm hàm.

7. Tằng lô già lệ.

8. Sa ha.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Thần Chú này xong, liền bảo Đại Phạm rằng: Nếu có ai tạm nghe Đà La Ni này thì tất cả mọi tội chướng của kẻ trai lành, người nữ thiện ấy đều được trừ diệt.

Nếu hay tụng trì thì nên biết người ấy tức là thân của Kim Cương Vajra kāya, lửa chẳng thể thiêu đốt được.

Này Đại Phạm! Ông nên biết việc này: Tại Đại Thành Ca Tỳ La Kapila, lúc Đồng Tử La Hầu La Rāhula ở trong thai mẹ. Mẹ Ngài tên là Gia Du Đà La Yaśodhara vốn là người nữ thuộc dòng tộc Thích Ca Śākya.

Khi bà bị ném vào hầm lửa thì lúc đó, La Hầu La đang nằm trong thai mẹ, nghĩ nhớ đến Chú này, cho nên hầm lửa lớn kia liền biến thành ao hoa sen. Đây là uy lực của Thần Chú này, do nhân duyên ấy mà lửa chẳng thể thiêu đốt được.

Đức Phật bảo: Này Đại Phạm! Chất độc chẳng thể hại người ấy được. Như ở thành Thiện Du có người con của vị Trưởng Giả Phong Tài Bhogavatī, khéo trì tất cả Cấm Chú khác. Khi trì Chú lực nhiếp triệu Vua Rồng Đức Xoa Ca Takṣaka lại quên Kết Giới Sīma bandhana.

Vị Long Vương ấy giận dữ nghiến răng gây tổn hại khiến cho người đấy phải chịu khổ não lớn. Trong khoảng khắc, mệnh không có ai có thể cứu vãn được.

Ở trong cái thành ấy, có vị Ưu Bà Di UpĀsika: Cận Sự Nữ tên là Vô Cấu Amala thường trì Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú này. Vị Ưu Bà Di ấy khởi tâm đại từ bi, sinh lòng thương xót, liền đi đến nơi đó dùng Chú này cứu chữa.

Bà mới tụng Chú một biến thì chất độc kia liền bị tiêu diệt làm cho người ấy được hoàn lại Bản Tâm. Thời người con của Vị Trưởng Giả ở bên bà Vô Cấu thọ trì Chú này, ghi nhớ tại tâm. Vì thế nên biết chất độc chẳng thể hại được.

Lại nữa Đại Phạm! Ở thành Ba La Nại Vāraṇasī có vị Vua tên là Phạm Thí. Lúc đó, vị Vua của nước lân cận có uy lực lớn, khởi bốn loại binh đến chinh phạt Vua Phạm Thí. Khi bốn loại binh vào đến thành Ba La Nại thì Vua Phạm Thí đã biết rồi.

Ngài ban sắc lệnh cho mọi người trong Thành rằng: Các ngươi đừng sợ hãi! Ta có Thần Chú tên là Tùy Cầu Tức Đắc Đà La Ni. Thần Chú này có sức mạnh hay đập nát kẻ địch với bốn loại binh.

Khi đó Vua Phạm Thí tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới sạch, viết chép Chú này đeo ở trên thân rồi lao vào chiến trận. Một mình Vua giao tranh với giặc, giáng phục bốn loại binh khiến chúng quy hàng Vua Phạm Thí.

Đại Phạm nên biết Đại Thần Chú này có uy lực lớn, được Như Lai ấn khả, thường nên nhớ niệm. Nên biết sau khi Đức Phật nhập diệt thì Chú này rất lợi ích cho chúng sinh.

Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người đeo Chú này, nên biết Như Lai dùng sức thần thông ủng hộ cho người đó. Nên biết người đó là Thân của Như Lai. Nên biết người đó là Thân của Kim Cương.

Nên biết người đó là Thân của Như Lai Tạng. Nên biết người đó là con mắt của Như Lai. Nên biết người đó mặc áo giáp Kim Cương. Nên biết người đó là Thân Quang Minh. Nên biết người đó là Thân Bất Hoại. Nên biết người đó hay tồi phục tất cả oán địch. Nên biết hết thảy tội chướng của người đó đều được tiêu diệt. Nên biết Chú đó hay trừ nạn khổ của địa ngục.

Đại Phạm nên biết, có vị Tỳ Kheo ít Tín Tâm, đối với Giới của Như Lai có sự khuyết phạm, lại ăn trộm đồ vật của Tăng hiền tiền, vật của Tăng thường trụ, vật của Tăng đi bốn phương mà dùng riêng cho mình. Sau này vị Tỳ Kheo đó bị bệnh nặng chịu nhiều khổ não.

Lúc ấy có một vị Ưu Bà Tắc Upāsaka: Cận Sự Nam thuộc dòng Bà La Môn Brāhmaṇa khởi đại từ bi, viết Thần Chú này, đeo dưới cổ vị Tỳ Kheo bị bệnh. Khi đeo xong thì tất cả bệnh khổ thảy đều tiêu diệt. Sau khi hết thọ mệnh, vị Tỳ Kheo này bị đọa vào Địa Ngục A Tỳ Avīci. Thi hài của vị Tỳ Kheo ấy được an táng trong cái Tháp và để Thần Chú lên trên thi hài. Ngày nay cái Tháp của vị Tỳ Kheo ấy còn tồn tại ở phía Nam của Thành Mãn Túc.

Vị Tỳ Kheo này tạm vào địa ngục thì hết thảy nỗi đau khổ của các kẻ chịu tội đều được ngừng dứt, khắp mọi người đều an vui, hết thảy đám lửa trong địa ngục cũng đều tiêu diệt.

Lúc đó, Ngục Tốt nhìn thấy hiện tượng đấy thì rất kinh ngạc lạ lùng, liền đem việc ấy thưa trình với Vua Diêm La Yama rāja.

Thời Vua Diêm La bảo Ngục Tốt rằng: Đây là Xá Lợi thuộc thân đời trước của bậc có uy đức lớn.

Các ngươi có thể đến phía Nam của thành Mãn Túc tìm xem có việc gì?

Ngục Tốt nhận lệnh đi ngay, đầu đêm đến cái Tháp đó liền nhìn thấy cái Tháp tỏa hào quang như đám lửa lớn. Nhìn vào trong Tháp thì thấy ở trên thi hài của vị Tỳ Kheo có đặt Thần Chú Tùy Cầu Tức Đắc Đại Đà La Ni, lại có Chư Thiên vây quanh thủ hộ. Lúc ấy, Ngục Tốt nhìn thấy sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn của Chú này liền đặt tên hiệu cho cái Tháp đó là Tùy Cầu Tức Đắc Pratisāraḥ.

Bấy giờ Ngục Tốt quay trở về trình báo mọi việc đã nhìn thấy cho Vua Diêm La. Vị Tỳ Kheo ấy nương theo sức mạnh của Chú này mà tội chướng đều trừ diệt, liền được sinh về cõi Tam Thập Tam Thiên Trāyastriṃśa deva. Nhân vậy mà vị Trời này có tên là Tùy Cầu Tức Đắc Thiên Tử Pratisāra devaputra.

Đại Phạm nên biết, nếu biết như Pháp viết chép Chú này, đeo giữ trên Thân thì thường không có khổ não, lợi ích cho tất cả và trừ bỏ mọi sự sợ hãi.

Lại nữa Đại Phạm! Như ở trong thành Tiêu A Nguỵ có vị Trưởng Giả tên là Tỳ Lam Bà Vilambā. Kho tàng của ông đầy tràn, vàng bạc sung mãn, tiền của lúa đậu cực nhiều. Vị Trưởng Giả ấy là một Thương Chủ, ông dong chiếc thuyền to đi vào biển lớn.

Ở trong cái biển lớn ấy, gặp một con cá Đê Di Lê muốn phá hư thuyền. Vị Vua Rồng trong biển lại sinh giận dữ, khởi sấm sét lớn, tuôn mưa đá cứng như Kim Cương. Lúc đó, mọi người rất sợ hãi lo lắng.

Khi ấy, vị Thương Chủ bảo các Thương Nhân rằng: Các ông đừng sợ hãi! Tôi có phương kế quyết định thoát khỏi ách nạn này.

Chúng Thương Nhân nói: Lành thay! Lành Thay!

Bấy giờ Vị Thương Chủ liền đúng như Pháp viết chép Chú này đặt trên đầu cây phương. Tức thời con cá kia nhìn thấy chiếc thuyền này có vầng hào quang lớn như đám lửa rực nên thoái lui. Các hàng Rồng kia nhìn thấy tướng ấy liền khởi Tâm Từ. Khi ấy vị Thương Chủ với các Thương Nhân sinh Tâm cực vui vẻ và đến được nơi cất chứa vật báu.

Vì thế, Đại Phạm! Nên chép Chú này đặt trên đầu cây phướng sẽ hay trừ bỏ tất cả trận gió ác. Mọi hiện tượng rét lạnh chẳng đúng thời. Trời chợt nổi mây đen tuôn mưa sương mưa đá … thảy đều ngừng dứt. Tất cả muỗi mòng, Hoàng Trùng với các loài khác… ăn phá lúa mạ tự nhiên sẽ lui tan.

Tất cả giống thú ác, loài có nanh bén vuốt nhọn chẳng thể gây hại được. Tất cả lúa mạ, hoa quả, cỏ thuốc đều được tăng trưởng. Quả trái có vị ngon ngọt, chín mùi tuỳ theo thời. Các hàng Long Vương Nāga rāja giáng mưa đúng thời tiết.

Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người mong cầu thì cần phải như Pháp viết chép Chú này, ắt mọi điều cầu nguyện đều được thành tựu. Cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái, khéo giữ gìn bào thai, đứa con trong thai được an ổn, đủ ngày đủ tháng sinh sản an vui.

Đại Phạm nên biết, ở nước Ma Già Đà Magadha có vị Vua tên là Từ Mẫn Thủ?

Pratisāra pāṇi. Lúc mới sinh ra, vị Vua ấy liền duỗi bàn tay phải nắm lấy vú mẹ thì hai bầu vú của mẹ biến thành màu vàng ròng và tự tuôn chảy sữa. Ở trong bàn tay của vị Vua đó lại tuôn ra vô lượng châu báu ban cho các chúng sinh. Do nhân duyên ấy mà vị Vua ấy có tên là Từ Mẫn Thủ.

Vị Vua ấy không có con, vì muốn cầu con nên Vua thiết lập Hội Thí to lớn cúng dường Chư Phật và các Tháp Miếu nhưng chẳng được như nguyện. Sau đó, trong đêm vị Vua nằm mộng thấy Tĩnh Cư Thiên Tử Śuddhāvasa devaputra đi đến bảo với Vua rằng: Đại Vương nên biết, có Đại Thần Chú tên là Tùy Cầu Tức Đắc. Đại Vương có thể như Pháp viết chép rồi cho Đại Phu Nhân đeo dưới cổ ắt sẽ có con.

Lúc tỉnh giấc, vị Vua chờ đến sáng sớm liền như Pháp viết chép Đại Thần Chú này và cho Phu Nhân đeo vào cổ. Tức thời bà có thai, đủ ngày đủ tháng sinh ra một đồng tử có đầy đủ sắc tướng uy nghiêm thù thắng, ai nhìn thấy cũng đều vui vẻ.

Đại Phạm nên biết, Thần Chú này có sức mạnh khiến cho mọi sự nguyện cầu đều được vừa ý.

Lại nữa Đại Phạm! Khi Thiên Đế Thích Śakra đánh nhau với A Tu La Asura, thời Thiên Vương Đế Thích đeo Thần Chú này nên Đế Thích Thiên Chúng chẳng bị thương tổn, thường được thắng lợi quay về cung an ổn.

Lại nữa Đại Phạm! Nếu có người đeo Thần Chú này trên Thân thì tất cả Chư Phật đều dùng thần lực gia bị cho người ấy, là nơi mà các Bồ Tát đã khen ngợi. Ở tất cả nơi, tất cả chỗ tranh tụng, luận bàn tranh cãi đều được chiến thắng, thường không có bệnh tật, tất cả tai nạn thình lình chẳng thể gây hại được, Tâm không có lo âu phiền muộn, luôn được Chư Thiên thủ hộ.

Nếu ai viết chép tám Đạo Chú này đeo giữ, tâm thường nhớ niệm thì tất cả mộng ác, tướng ác, việc chẳng tốt lành chẳng thể phạm vào thân. Tùy Cầu Tức Đắc Đà La Ni Thần Chú này được chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha hằng hà sa đẳng Chư Phật cùng nhau tuyên nói, cùng nhau ấn khả, cùng nhau khen ngợi, cùng chung hoan hỷ. Chú này có thế lực lớn, có đại uy quang, có công dụng lớn, tất cả chúng Ma thảy đều bị giáng phục. Đại Thần Chú này rất khó có thể được.

Lại nữa Đại Phạm! Thời quá khứ có Đức Phật tên là Khai Nhan Hàm Tiếu Ma Ni Kim Bảo Hách Dịch Quang Minh Xuất Hiện Vương Như Lai, ngồi trên Tòa Kim Cương Vajrāsana trong Bồ Đề Trường Bodhi maṇḍa. Lúc mới thành Chính Giác thì có vô ương số Ma Māra với các quyến thuộc Parivāra đến chỗ Phật ngự, hiện các thần lực gây các chướng nạn, hiện các tướng ác, tạo hình sân nộ, tuôn mưa khí trượng vũ khí, đao, gậy…

Bấy giờ Đức Thế Tôn điềm nhiên ngồi yên, dùng sức của căn lành hiền thiện nhớ niệm Chú này. Vừa mới nhớ niệm xong thì các ma chúng ấy nhìn thấy ở trong mỗi một lỗ chân lông của Đức Thế Tôn tuôn ra trăm ngàn vạn ức binh chúng, thân mặc áo giáp, phóng ánh sáng lớn, du hành tự tại trên hư không, thời các ma chúng bị mất thần thông, phải bỏ chạy tứ tán.

Lại nữa Đại Phạm! Ở thành Ô Thiền Na Ujayanī có vị Vua tên là Phạm Thí. Lúc ấy có một người vì mạo phạm đến Nhà Vua nên bị xử tội chết. Vị Vua ban lệnh đem tội nhân vào trong núi xử tử. Lúc Đao Phủ vung đao tính chém thì trước kia tội nhân ấy có đeo Chú này ở cánh tay phải, do sức mạnh của Chú này mà cây đao bị bốc lửa, tự nhiên tan hoại như bụi nhỏ.

Vị Pháp Quan nhìn thấy việc này xong thì kinh ngạc chưa từng có, liền đến bạch với Vua, trình tấu đủ mọi việc.

Vị Vua bảo Pháp Quan rằng: Ở trong núi kia có hang Dạ Xoa, trong hang đó có vô lượng Dạ Xoa trú ngụ. Ngươi có thể đưa tội nhân vào trong hang ấy.

Vị Pháp Quan vâng theo lời dạy, đem tội nhân đến hang. Khi các Dạ Xoa đi đến muốn ăn thịt. Do uy lực của Chú này nên các nhóm Dạ Xoa đều nhìn thấy thân thể của người đó tỏa ra ánh sáng rực rỡ, thời các Dạ Xoa liền đưa tội nhân này ra bên ngoài hang động và cung kính lễ bái.

Khi ấy, vị Pháp Quan lại đem việc này trình tấu đầy đủ với Nhà Vua.

Đức Vua lại bảo: Hãy đem tội nhân này ném xuống con sông lớn.

Vị Pháp Quan vâng lệnh ném người ấy xuống sông, nhưng tội nhân ấy chẳng bị nước nhận chìm tựa như có mặt đất che phủ trên nước. Vị Pháp Quan lại đem việc ấy khải tấu với Đại Vương.

Đức Vua rất kinh ngạc liền kêu tội nhân lên hỏi: Ngươi dùng điều gì mà có thể thoát được nạn như vậy?

Tội Nhân đáp: Tâu Đại Vương! Thần không có cách giải thoát, chỉ nhờ trên thân có đeo Thần Chú Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni thôi. Đức Vua nghe xong, lấy làm lạ lùng, khen ngợi vô lượng.

Đức Phật bảo: Này Đại Phạm! Như các việc đã nói như trên, ông có thể biết về sức mạnh của Thần Chú đó, đều nên viết chép đeo giữ trên Thân.

Lại bảo Đại Phạm: Nếu có người muốn đeo Chú này thì nên như pháp mà viết chép.

Bấy giờ, Đại Phạm bạch với Đức Phật rằng: Thế Tôn! Nếu muốn viết chép Chú này thì phải làm theo phép tắc nào?

Đức Phật bảo Đại Phạm: Trước tiên nên kết Đàn. Ở bốn góc Đàn đều đặt một cái bình chứa đầy nước thơm. Bên trong Đàn vẽ làm hai Hoa Sen, hoặc ba hoặc bốn hoặc năm đóa sen. Bốn mặt chung quanh đều tạo râu nhụy hoa sen.

Lại làm một hoa sen hé nở lớn, cuối cọng hoa treo lụa đẹp.

Lại làm một hoa sen tám cánh, trên mỗi một cánh hoa làm một cây kích Tam Xoa, trên cuối cọng hoa treo lụa đẹp.

Lại làm một hoa sen tám cánh, ở giữa tâm hoa làm một cái chày Kim Cương, trên mỗi một cánh hoa cũng làm một cái chày, trên cuối cọng hoa ấy treo lụa đẹp.

Lại làm một hoa sen tám cánh, trên mỗi một cánh hoa đều làm một cây búa.

Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một cây đao, cuối cuống hoa ấy cũng treo lụa đẹp.

Lại vẽ làm một cây kiếm, ở trên vỏ kiếm vẽ hoa, trên cuối cuống hoa ấy cũng treo lụa đẹp.

Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một vỏ ốc Loa.

Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một sợi dây lớn Quyến sách.

Lại làm một hoa sen, ở trong tâm hoa vẽ làm một trái châu rực lửa Hỏa Diễm Châu.

Sau đó đốt hương, rải hoa, dâng thức ăn uống quả trái, mọi loại cúng dường.

Nếu có người muốn viết chép, đeo Chú này, cần phải y theo Pháp kết Đàn như vậy, còn phương pháp của Đàn khác chẳng được xen lẫn vào. Sai người viết Chú, trước tiên phải tắm gội sạch sẽ mặc áo mới sạch, ăn ba loại Bạch Thực là: Sữa, Lạc, cơm gạo tẻ. Không cứ là giấy, lụa, trúc, vải, các vật… mỗi loại đều được phép dùng để viết chép Chú này.

Nếu có phụ nữ cầu sinh con trai thì dùng Ngưu Hoàng viết chép trên tấm lụa. Trước tiên hướng bốn mặt viết Thần Chú này, bên trong vẽ một Đồng Tử có báu Anh Lạc trang nghiêm cái cổ, bàn tay nâng một cái bát bằng vàng chứa đầy châu báu. Lại ở bốn góc đều vẽ một thân Đồng Tử mặc áo giáp.

Lại làm mọi loại ẤN cho người đeo Chú này.

Nếu Chuyển Luân Vương đeo Chú này, thì ở trong tâm của Chú vẽ hình Quán Thế Âm Bồ Tát Avalokiteśvara với hình Đế Thích Indra. Lại ở bên trên làm mọi loại Phật Ấn, các Thiện Thần Ấn thảy khiến cho đầy đủ.

Lại ở bốn góc vẽ bốn vị Thiên Vương với mọi báu trang nghiêm đều y theo Bản Phương Phương Vị của mỗi Tôn Nếu vị Tăng đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ một vị Kim Cương Thần Vajra dhāra với mọi báu trang nghiêm. Bên dưới vẽ một vị Tăng chắp tay quỳ thẳng lưng. Vị Kim Cương duỗi bàn tay án trên đỉnh đầu vị Tăng này.

Nếu Bà La Môn Brāhmaṇa đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Đại Tự Tại Thiên Īśana.

Nếu Sát Lợi Kṣatriya đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Ma Hê Thủ La Thiên Maheśvara.

Nếu Tỳ Xá Vaiśya đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Tỳ Sa Môn Thiên Vương Vaiśravaṇa.

Nếu Thủ Đà Śūdra đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Chước Yết La Thiên Na La Diên Thiên: Nārāyaṇa.

Nếu đồng nam đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Câu Ma La Thiên Kumāra.

Nếu đồng nữ đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Ba Xà Ba Đề Thiên Prajāpati: Sinh Chủ, tên của vị Phạm Thiên.

Từ đây trở lên là nghi tắc của người đeo Chú. Ở trong tâm của Chú vẽ các Thiên.

Thần đều có hình trạng thiếu niên có diện mạo vui tươi.

Nếu có người muốn trì đeo Thần Chú này đều phải mỗi mỗi tự mình y theo bản pháp.

Nếu phụ nữ mang thai đeo Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ Ma Ha Ca La Thiên Mahā kāla: Đại Hắc Thiên với khuôn mặt màu đen.

Nếu có người treo Chú này trên cây phướng cao, thì nên ở nơi có địa thế cao dựng một cây phướng cao. Ở trên đầu cây phướng đặt một trái Hỏa Diễm Châu, lại đặt Thần Chú này ở bên trong trái châu ấy thì hết thảy các chướng ngại ác với các bệnh dịch đều được tiêu diệt.

Nếu gặp lúc nắng hạn thì ở trong tâm của Chú vẽ một con Rồng chín đầu.

Nếu lúc mưa quá nhiều cũng vẽ con Rồng chín đầu này và nên đặt trong nước có Rồng ắt nắng hạn sẽ tuôn mưa, còn lúc mưa quá nhiều sẽ được quang tạnh ngay. Nếu Thương Nhân đeo Thần Chú này thì ở trong tâm của Chú vẽ hình Thương Chủ với các Thương Chúng đi theo, ắt đều được an vui.

Người trì Chú này, tự mình muốn đeo thì ở trong tâm của Chú vẽ một Nữ Thiên, lại ở bên trong vẽ các vì sao Tinh Thần, Mặt Trời, Mặt Trăng.

Nếu Phàm Nhân đeo Chú này thì chỉ nên viết chép Chú này, rồi đeo giữ.

Đức Phật bảo: Này Đại Phạm! Nếu các người hay như Pháp viết chép, trì đeo thì thường được an vui… hết thảy việc đã làm đều được thành tựu. Đời này an vui, đời sau sinh lên Trời, hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt. Người thường thọ trì luôn được Chư Phật Bồ Tát hộ niệm. Ở trong giấc mộng thường được nhìn thấy Phật, cũng được cả sự tôn kính của mọi người. Ông nên thọ trì khiến cho lưu bố rộng rãi.

Đức Phật nói Kinh này xong thời Đại Phạm Thiên Vương nghe điều Đức Phật đã nói, tâm rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

KINH TÙY CẦU ĐẮC ĐÀ LA NI TÂM PHẬT

HẾT