THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG 十殿閻王
( Vua Diêm Vương Của Mười Điện )
Phong
Đô Đại Đế cai quản Thập điện diêm vương.
Ở cõi Diêm La có mười vị vua cai quản, có
nhiệm vụ và công việc khác nhau để xem xét người chết lúc còn sống trên thế
gian đã phạm vào những tội lỗi gì mà có hình phạt thích đáng.
1. Nhất Điện: Tần
Quảng Vương cầm sổ sống chết.
2. Nhị Điện: Sở
Giang Vương coi Đẳng Hoạt Địa Ngục
3. Tam Điện: Tống Đế Vương coi Hắc Thằng Đại
Địa Ngục
4. Tứ Điện: Ngũ Quan Vương coi Chúng Hiệp Đại
Địa Ngục
5. Ngũ Điện: Diêm
La Vương coi Khiếu Hoán Địa Ngục
6. Lục Điện: Biện Thành Vương coi Đại Khiếu
Hoán Địa Ngục
7. Thất Điện: Thái
Sơn Vương coi Nhiệt Não Địa Ngục
8. Bát Điện: Đô Thị Vương coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục
9. Cửu Điện: Bình Đẳng Vương coi ATỳ Địa Ngục.
10. Thập Điện: Chuyển
Luân Vương cho đi đầu thai.
1. Nhất Điện Tần Quảng Vương:
(Tần Quảng Vương ở Điện
thứ nhất)
Quản lý sổ sách ghi chép về tuổi thọ của con
người, quản lý hết tất cả việc lành dữ của cõi U Minh. Cung điện của Ngài
ở bên dưới tầng đá ngầm đáy biển, nằm về hướng Tây của hắc lộ suối vàng.
Nếu người chết là người có làm việc thiện, thì
được tiếp dẫn vãng sinh ngay. Còn nếu người chết là nam hay nữ mà công
tội ngang nhau, thì được đưa đến Điện thứ mười cho đi đầu thai, có thể nam
chuyển thành nữ hay ngược lại, tùy theo nghiệp của mỗi người mà định. Nếu làm
ác có ít, thì đưa vào một điện có đài cao, gọi là “Nghiệt kính (cảnh) đài”. Đài
này cao một trượng, xung quanh có kiếng, treo ở hướng Đông, trên biển có đề
câu: “Trước Đài Nghiệt Cảnh không người tốt”. Hồn người chết sẽ thấy lại tất cả
những việc mình đã làm khi sống, bao nhiêu tội lỗi đã gây tạo, nay phải chịu sa
xuống Địa Ngục chịu sự trừng phạt. Lúc này thì dù “vàng ròng cũng khó đổi”
được. Sau khi xem hết các tội lỗi rồi thì chuyển qua Điện thứ hai để thọ hình
phạt theo tội đã gây ra.
*Như người lúc còn sống, chẳng kính trời đất,
không nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mà báo đáp, hỗn hào cãi
lệnh cha mẹ, coi thường mệnh sống, tự ải tự vẫn (thắt cổ tự tử), uống
thuốc độc hoặc nhảy sông mà chết. Những người chết như thế, ngoại trừ do
bảo vệ trung hiếu tiết nghĩa mà có hành động như vậy, tất cả người do vì
sân hận, hoặc vì lý do không đáng mà tự tử, hoặc do muốn hù dọa người mà lộng
giả thành chân …mà chết (thì đều phải chịu trừng phạt).
*Các vị thần Môn Táo (cửa và bếp) sẽ giải
những hồn này vào điện để chịu sự đói khát, từ chập tối đến nửa đêm (giờ tuất
và hợi) phải chịu sự đau đớn sống chết. Hình phạt kéo dài hoặc 70 ngày
hoặc hai, ba năm, rồi đưa hồn trở về quê quán để gặp vợ (chồng) con, nhưng
không được hưởng cơm canh tiền bạc (do thân nhân cúng). Nếu người đó biết ăn
năn tội lỗi thì không còn hiện những hình ảnh ghê sợ cho người, dọa nhát người
đời nữa. Trải qua thời gian trừng phạt này rồi, thì thần Môn Táo lại giải xuống
điện cũ để chuyển tiếp Điện thứ hai, tra xét công tội để áp dụng hình phạt
thích đáng nơi ngục đó. Nếu khi sống có làm việc thiện thì có phần miễn giảm,
còn toàn làm ác thì quỉ mặt xanh sẽ áp giải đến ngục khác chịu hình phạt, nếu
quá nặng thì cho xuống đại Địa Ngục ATỳ, mãi mãi chịu hình phạt không cho tái
sinh nữa.
Những kẻ khi sống làm nghề “thợ tụng”, tụng
kinh cầu nguyện cho người mà gian lận, bớt lời bớt chữ trong kinh (tụng
nhận lớp) thì đưa sang “Bổ Kinh Sở” (nơi tụng kinh thêm cho đủ số). Nơi đây, có
để kinh điển, thắp một cây đèn dầu leo lét, khi mờ khi tỏ không thể tụng đọc
nhanh được. Mà khi tụng, bỏ sót một chữ sẽ bị quỉ sứ đánh đòn nên không dám sai
trái. Những người này, dù ở thế gian thân nhân có rước bao nhiêu thầy đến hộ
niệm đi nữa thì tội cũ vẫn không giảm được. Chỉ có trường hợp, chính người thân
thiết đó, hết sức thành tâm tụng đọc, ra sức làm điều thiện và cúng lễ thần
thánh, dù đọc kinh trì chú không hay miễn có đủ tâm thành thì có cảm ứng. Lúc
ấy, vào sáu ngày lành mỗi tháng, sẽ có “Thần chỉ” đưa đến mà giảm tội cho.
Muốn tránh khỏi hình phạt ở địa ngục chỉ có
cách là phát lòng thành tâm niệm thần để cầu vãng sinh, lập thệ nguyện hoằng
pháp lợi sinh, làm nhiều việc công đức …thì khi vãng sinh được Thần tiên tiếp
dẫn cứu thoát mà thôi !
*Vào ngày mùng 1 tháng hai (là ngày thánh đản
của Nhất Điện Tần Quảng Vương), tụng kinh sám hối, tụng kinh Thái Ất Cứu Khổ và
thực hành làm lành sẽ được Ngài phù hộ.
2. Nhị Điện Sở Giang Vương
(Sở
Giang Vương ở Điện thứ hai)
*Ngục này nằm ở đáy biển, dưới tầng đá ngầm
phía chính Nam, gọi là địa ngục Đẳng Hoạt.
Gồm có 16 địa ngục nhỏ như sau:
1. Hắc Vân Sa Tiểu Địa Ngục. (cát mây đen)
2. Phẩn Niệu Nê Tiểu Địa Ngục. (phẩn,
nước tiểu, bùn)
3. Ngũ Xoa Tiểu Địa Ngục. (cây chĩa năm răng)
4. Cơ Ngạ Tiểu Địa Ngục. (đói )
5. Tiêu Khát Tiểu Địa Ngục. (khát)
6. Nùng Huyết Tiểu Địa Ngục. (chảy máu
tươi)
7. Đồng Phủ Tiểu Địa Ngục. (búa đồng)
8. Đa Đồng Phủ Tiểu Địa Ngục. (nhiều búa đồng)
9. Thiết Khải Tiểu Địa Ngục. (giáp bằng sắt)
10. U Lương Tiểu Địa Ngục. (tối tăm)
11. Kê Tiểu Địa Ngục. (gà cắn mổ)
12. Hôi Hà Tiểu Địa Ngục. (tro than, sông
nước)
13. Chước Tiệt Tiểu Địa Ngục. (chặt cắt)
14. Kiếm Diệp Tiểu Địa Ngục. (kiếm bén)
15. Hồ Lang Tiểu Địa Ngục. (chồn sói)
16. Hàn Băng Tiểu Địa Ngục. (băng lạnh)
*Người thế gian phạm vào tội lừa gạt
thiếu niên nam nữ, buôn bán trẻ em, cưỡng đoạt thân thể đoạt tài sản của chúng,
không rõ nghề bốc thuốc cho người làm tổn hại đến mắt, lỗ tai, tay, chân của
họ, không tha đầy tớ gái già, tham cầu lợi lộc mà làm mai mối hôn nhân, dấu
giếm (khai gian) tuổi tác, đến nhà người sinh sự, nam nữ làm điều dối gian, nói
không thật lời. Phạm tội loạn luân. Làm quan ăn của hối lộ…
Những người này khi chết, sau khi ở Nghiệt
Cảnh Đài đã tra ra tội phạm nhiều ít, thời gian phạm lâu mau, có cố ý hay vô
tình …thì cho quỷ tóc đỏ răng nanh dẫn đi đến địa ngục nhỏ tương ứng để thọ
tội.
Thí dụ như: Phạm tội loạn luân, bị cắt
(thiến) thận, làm quan tính kế đảo điên, ăn hối lộ, bị nhốt trong hỏa xa, đêm
vắng toan mưu dối, bị cát mây đen đè mình, xúi trẻ thơ lầm lỗi bị cầm trong
ngục giá lạnh. Mãn kỳ thọ tội này thì chuyển sang ngục thứ ba để định tiếp.
Người nào trên thế gian thường biết nói điều
hay trong kinh Ngọc Lịch để giáo hóa người khác hoặc ấn tống kinh điển giúp
người giác ngộ, thương yêu chúng sinh, dạy dỗ điều lành tốt cho trẻ em, không
tàn hại côn trùng, làm các việc thuốc men cho người bệnh, cơm cháo cho người
nghèo đói, giúp tiền bạc để cứu giúp người nghèo khổ, biết ăn năn tội lỗi đã lỡ
gây tạo thì được miễn trừng phạt nơi ngục này, mà đưa thẳng xuống Điện thứ mười
để đầu thai kiếp khác.
*Vào ngày mùng 01 tháng 3 tụng kinh Thái Ất
Cứu Khổ thực hành làm thiện, hành thiện phóng sinh, thì được Ngài Nhị Điện Sở
Giang Vương phù hộ.
3. Tam Điện Tống Đế Vương:
(Tống
Đế Vương ở Điện thứ ba)
Ngục này nằm dưới tầng đá ngầm hướng
Đông Nam đáy biển, tên gọi là “Hắc Thằng Địa Ngục” (dây đen).
Có tất cả 16 địa ngục nhỏ như sau:
1.Hàm Lỗ Tiểu Địa Ngục. (muối mặn)
2. Ma Hoán Già Nữ tiểu Địa Ngục. (gông
xiềng)
3. Xuyên Lặc Tiểu Địa Ngục. (xỏ gân)
4. Đồng Thiết Quát Kiểm Tiểu Địa Ngục. (đồng
sắt nạo gò má)
5. Quát Chi Tiểu Địa Ngục. (nạo chảy mỡ)
6. Kiềm Tễ Tâm Can Tiểu Địa Ngục. (đóng vào
tim gan)
7. Oát Nhãn Tiểu Địa Ngục. (móc mắt)
8. Sản Bì Tiểu Địa Ngục. (phanh da)
9. Nguyệt Túc Tiểu Địa Ngục. (cắt chân)
10. Bạt Thủ Cước Giáp Tiểu Địa Ngục. (rút móng
tay chân)
11. Hấp Huyết Tiểu Địa Ngục. (hút máu)
12. Đảo Điếu Tiểu Địa Ngục. (treo ngược rút
lên)
13. Phân Tuỷ Tiểu Địa Ngục. (xẻ xương
tủy)
14. Thư Chú Tiểu Địa Ngục. (ăn giòi bọ)
15. Kích Tất Tiểu Địa Ngục. (đánh vào đầu gối)
16. Bà Tâm Tiểu Địa Ngục. (bóp trái tim)
*Người lúc còn sống khi làm quan, chẳng nghĩ
ơn đức lớn lao của vua (đất nước), mệnh sống người dân là quan trọng, chỉ biết
hưởng thụ lợi lộc mà không làm tròn bản phận, chẳng màng dân chúng khổ sở
đói rét. Người dân thường thì thấy lợi bỏ quên ân nghĩa, chồng bất nghĩa, vợ
chẳng hòa thuận, làm con nuôi của người thọ lãnh ân huệ của họ mà vì muốn chiếm
đoạt tài sản sinh ra vong ân bội nghĩa, đày tớ mà phụ ơn chủ nhà, binh lính phụ
ơn của người chỉ huy, công nhân phụ ơn nghĩa của giám đốc, hoặc phạm tội vượt
ngục hoặc quân nhân đào ngũ, không làm tròn chức trách của trên giao
phó…Phạm những lỗi trên mà không chịu sám hối thì tuy có làm điều lành đi nữa
cũng không bớt được tội cũ (phải có sự ăn năn sám hối mới được)
Thêm nữa, những vị thầy sư sãi coi xem nhà cửa
mồ mã cho người, học không đến nơi đến chốn, làm sai lệch mà lấy tiền người.
Hoặc đào mồ cuốc mã thiên hạ, chiếm đất nghĩa địa. Hoặc dụ dỗ người làm việc
phi pháp.
Giết người lấy của, đi săn bắn, bị cọp xé
thây, gian dâm vợ người, sửa chữa giả mạo giấy tờ, người có chuyện di chúc, gởi
gắm mình mà mình không chịu thực hiện, đốt phá nhà cửa người, đòi nợ xiết của
người khác, làm sách giả nguy hại đời sau…
Sau khi tra xét tường tận, sẽ cho Đại Lực Quỷ
đưa vào tiểu ngục thích ứng chịu trừng phạt theo tội lỗi đã làm. Thọ hết
hình phạt, lại chuyển sang ngục thứ tư để tra xét tiếp.
*Ngày mùng tám tháng hai, tụng kinh Thái
Ất Cứu Khổ và thực hiện việc làm lành, tụng kinh sám hối nếu lỡ gây ra
những tội đã nêu trên, thì sẽ được Ngài Tam Điện Tống Đế
Vương hộ trì miễn giảm tội khiên.
4. Tứ Điện Ngũ Quan Vương :
(Ngũ Quan Vương ở Điện thứ tư)
Ngục thứ tư nằm ở dưới tầng đá ngầm biển, ở về
hướng Đông. Ngục này có tên là “Chúng Hợp Địa Ngục” (đối xử với người).
Có 16 tiểu ngục là:
1. Thạch Trì Tiểu Địa Ngục. (ao có bờ vách
bằng đá)
2. Miêu Luyện Trúc Tiêm Tiểu Địa Ngục. (rớt
xuống bàn chông tre)
3. Phí Thang Nhiễu Thủ Tiểu Địa Ngục. (nước
sôi)
4. Chưởng Bạn Lưu Dịch Tiểu Địa Ngục. (trấn
nước)
5. Đoạn Cân Dị Cốt Tiểu Địa Ngục.
(cắt gân)
6. Yển Kiên Loát Bì Tiểu Địa Ngục. (xẻ
vai lột da)
7. Toả Phu Tiểu Địa Ngục. (căng da)
8. Tồn Phong Tiểu Địa Ngục. (ngồi trên mũi
nhọn)
9. Thiết Y Tiểu Địa Ngục. (áo sắt)
10. Mộc Thạch Thổ Ngoã Áp Tiểu Địa Ngục. (gạch
ngói đá đè)
11. Kiếm Nhãn Tiểu Địa Ngục. (dùng kiếm khoét
mắt)
12. Phi Hôi Tắc Khẩu Tiểu Địa Ngục.
(nhét tro bịt miệng)
13. Quán Dược Tiểu Địa Ngục. (rót thuốc)
14. Du Đậu Hoạt Trật Tiểu Địa Ngục. (đi đường
đổ dầu trơn trợt cho ngã )
15. Thích Chuỷ Tiểu Địa Ngục. (đâm vào
miệng)
16. Toái Thạch Mai Thân Tiểu Địa Ngục.
(đá đè chôn thân)
*Người sống ở thế gian mà trốn sưu lậu
thuế, không nộp tô tức, dùng hai cái cân để gian lận, lường thưng tráo đấu, bào
chế thuốc giả, bán gạo ẩm mốc, xài tiền giả, tráo xén bớt tiền, bán dầu bột quá
hạn, may vá ăn xén vải vóc, cho vay ăn lời quá vốn, đi đường gặp người già tàn
tật không nhường bước, bắt người khác phục dịch quá đáng, nhận thư tín tin tức
người nhờ chuyển mà không sớm chuyển giao, lăn cây đá chặn đường đi, lấy trộm
dầu thắp đèn đường, nghèo mà không chịu siêng năng làm ăn lại chê trách người,
giàu mà không cứu giúp kẻ khó, giả bộ đi mượn tiền để người khác khỏi mượn
mình, làm bộ đói rách để xin của người, thấy người khác bệnh nhà mình có thuốc
(sách, bài thuốc hay) mà không cho, dấu diếm thuốc gia truyền để làm giàu, chăn
nuôi súc vật đổ phân, nước tiểu ra đường làm hôi thúi người đi đường, đổ rác ra
giữa đường đi, trù ếm làm hại người, bỏ cha mẹ trốn lánh tự tử, bỏ hoang
ruộng đất, làm cây cối ngã sập nhà, tường người, phách lối mắng nhiếc người …
Sau khi tra xét kỹ, tùy theo tội lỗi mà đưa
vào địa ngục thích ứng để chịu sự trừng phạt khổ sở, mãn hạn chuyển sang Địa
ngục thứ năm để tra xét tiếp.
*Những người còn sống ở thế gian, vào ngày 18
tháng 2, tụng kinh sám hối tự hứa không tái phạm những lỗi trên nữa. Tự mình
hoặc góp phần vào việc ấn tống kinh sách như Ngọc Lịch, Kinh Nhân Quả … để cảm
hóa chúng sinh, cho họ biết làm lành tránh dữ, thì được Ngài Tứ Điện Ngũ
Quan Vương phù hộ và miễn giảm tội cũ trót lỡ gây ra.
5. Ngũ Điện Diêm La Vương :
(Diêm La Vương ở Điện thứ năm)
*Vua Diêm La nói rằng:“Trước đây ta ở Điện thứ
nhất, vì thương hại người chết than thở là chưa làm tròn nguyện ước, ta cho họ
hoàn dương sống lại để làm cho xong, nên bị Thượng Đế điều sang cai quản ở đây.
Ngục này tên là ngục “Khiếu (Kiếu) Hoán” (kêu la rên xiết), nằm dưới tầng đá
ngầm đáy biển ở hướng Đông bắc. Có tất cả 16 Tiểu Địa Ngục đều gọi là “Đẳng
Tâm” (chặt đứt trái tim).
Những phạm nhân trước khi đưa đến đây đều trải
qua thời gian thọ tội nhiều năm ở ngục khác. Nơi ngục thứ tư, việc tra xét
không quá bảy ngày rồi chuyển sang đây, để khai thêm về những việc không làm ác
lúc còn sống. Phần lớn, các hồn quỷ thường khai rằng: “Trên thế gian chưa làm
xong nguyện vọng như xây cất đền, miếu, viện, đào giếng vét sông, làm chưa xong
việc ấn tống kinh điển khuyến thiện, hoặc phóng sinh chưa xong, hoặc chưa lo
xong việc chuẩn bị hậu sự cho song thân, hoặc mang ơn chưa kịp đền đáp, xin cho
được trở về để hoàn thành tâm nguyện, hẹn chẳng sai lời, hứa sẽ làm người tốt”.
Ta nghe như thế, bèn nói:“Các ngươi, lúc trước có làm ác hay không, quỷ thần đã
biết, hãy thành thật nhận tội đi. Nếu cõi âm ty không có quỷ oán hận thì lúc ở
dương gian là không có người oán hờn. Người tu hành chân chính ở thế gian không
có nhiều đâu. Nay đã đến đây, ta sẽ cho xem ở Nghiệt Cảnh thì biết hết sự thật
rồi, đừng nói nhiều lời nữa!”. Nói rồi, ta sai ngưu đầu mã diện giải phạm nhân
đến “Đài Vọng Hương” để nhìn về quê xưa của họ. Đài này cong như cây
cung, có ba mặt đông, tây và nam. Chiều cong dài tám trăm mười dặm, còn phía
bắc thì có một rừng kiếm làm thành trì. Đài này cao bốn mươi chín trượng, có
núi đao tua tủa. Bậc thang có sáu mươi ba cấp. Những người lương thiện thì khỏi
bắt lên đài này, người công và tội bằng nhau thì được cho đi đầu thai. Chỉ có
những kẻ làm ác thì phải lên mà thôi. Lên trên đài này rồi, thì sẽ thấy quê nhà
kế bên, người thân nói gì cũng nghe thấy. Nghe được những lời con cháu tranh
giành của cải tài sản, không chịu thực hiện di chúc, không thực hiện lời dặn dò
trăn trối. Kế thấy những cảnh thay đổi sau khi mình chết, sự vật khác xưa, mỗi
mỗi đều thay, chẳng còn gì là của mình. Người thân là chồng thì muốn cưới vợ
khác, người thân là vợ thì muốn lấy chồng khác, con cái thì tranh nhau tài sản,
đánh lộn đánh láo, chửi mắng nhau. Bà con thân thiết và bạn bè cũng chẳng ai
nhớ đến mình, con cái nheo nhóc khổ sở v.v…Thấy những cảnh ấy rồi, những hồn
người chết la khóc inh ỏi, dập đầu đập trán, nhào lộn tức tối, đau khổ muôn
phần…Như thế rồi lại nhìn thấy tiếp những cảnh tượng người thân bị trả quả báo
(của mình gây ra) như là: Trai bị bắt giam, nữ thì sinh quái thai, con trai bị
dụ dỗ sa đọa, con gái bị gian dâm. Sự nghiệp của mình bị tiêu tan, nhà cửa bị
cháy rụi, tất cả trong nhà đều bị tiêu sạch…khi ấy quỷ hồn hối hận ăn năn thì
đã quá muộn.
Sau đó, cho trở về trong điện để tra xét tiếp
rồi tùy theo tội lớn nhỏ nhiều ít lâu mau … mà đưa đến các Tiểu Địa Ngục để
chịu sự trừng phạt. Trong các Tiểu Địa Ngục này, có các cọc gỗ nhọn, chó sắt,
rắn đồng, gông xiềng tay chân. Quỷ dùng con dao nhỏ, mổ một đường ở bụng, vạch bày
ra trái tim, cắt xẻ ra từng miếng để ném cho rắn ăn, ruột thì cho chó ăn. Chịu
sự trừng phạt một ngày, thì chỗ mổ lành lại, đem giam vào ngục để sau hành hạ
tiếp.
Các Tiểu Địa Ngục là:
1. Người chẳng kính quỷ thần, không tin vào
nhân quả sẽ đưa vào Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
2. Giết hại sinh vật cũng cho vào Đẳng Tâm
Tiểu Địa Ngục.
3. Có lời vái nguyện mà chưa cúng trả lễ: Đẳng
Tâm Tiểu Địa Ngục.
4. Theo học tà thuật mong cầu được trường
sinh: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
5. Hận người trù rủa cầu cho người mau chết:
Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
6. Mưu tính kế hại người: Đẳng Tâm Tiểu
Địa Ngục.
7. Người nam mà dụ dỗ người nữ vào con đường
thất tiết: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
8. Làm việc tổn hại người lợi mình: Đẳng Tâm
Tiểu Địa Ngục.
9. Bỏn xẻn tiếc nuối tài vật mà chẳng màng
sống chết: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
10. Nuôi nấng người rồi cho đi ăn trộm: Đẳng
Tâm Tiểu Địa Ngục.
11. Lấy oán báo ân: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
12. Đam mê cờ bạc táng gia bại sản: Đẳng Tâm
Tiểu Địa Ngục.
13. Lừa gạt người: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
14. Dùng lời nói sai quấy xúi bảo người làm
bậy: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
15. Có tâm ganh ghét người hiền: Đẳng Tâm Tiểu
Địa Ngục.
16. Hay mắng nhiếc người: Đẳng Tâm Tiểu Địa
Ngục.
*Những người không tin nhân quả, cản trở người
làm việc lành, mượn tiếng đi chùa miếu dâng hương để xúi biểu người làm quấy,
thiêu đốt kinh sách dạy người làm lành, xúi người phá giới, ngăn cản người làm
ác biết ăn năn sám hối, biết đạo mà không giữ giới, phỉ báng Thần, chẳng chịu
nghe theo lời dạy đạo tu hành, mà còn xúi bảo người khác đi vào đường sai quấy
như mình, đào mồ cuốc mả người khác, thiêu đốt rừng núi, cho gia đình di chuyển
trước rồi đốt nhà phá xóm giềng, dùng cung tên súng đạn bắn lén người, bức ép
người khác khiến họ rầu rĩ mà sinh bệnh, ném đá, gạch ngói lên mái nhà người,
dùng thuốc độc hại cá, giăng lưới bắt chim, dùng muối tưới cây cỏ chết, thả rắn
rết độc trùng làm hại người đến chết, giả mạo chức tước để hại người, chiếm
đoạt nhà đất người, lấp giếng ngăn chận mương rãnh phá hoại nhà người …
Những kẻ phạm vào những tội lỗi trên, cho lên
Vọng Hương Đài để xem hết những tội đã phạm cùng hậu quả báo ứng, rồi cho vào
địa ngục Khiếu Oán, để họ tự ăn năn dày vò, đau khổ, khóc than một mình.
Kế đó mới tùy theo tội mà chuyển đến Tiểu Địa Ngục thích ứng mà hành tội tiếp.
Thọ tội xong, chuyển đến Điện thứ sáu để tra xét tiếp.
Những người khi còn sống không phạm những tội
đã nêu hoặc lỡ phạm mà vào ngày mùng 8 tháng giêng, tụng kinh sám hối, phát thệ
không tái phạm, thì được miễn hình phạt ở ngục thứ năm này, chuyển sang ngục thứ
sáu xem xét.
Nhưng người phạm vào các tội: Giết người hại
con vật lớn, theo bè đảng tà ngụy, gian dâm phụ nữ, bắt ép vợ người phải thất
tiết, nuôi người trộm cắp, những kẻ lấy oán báo ân, những người si mê chấp chặt
không chịu ăn năn sửa đổi, thì không được tha thứ miễn giảm.
6. Lục Điện Biện Thành Vương:
(Biện Thành Vương ở Điện thứ
sáu)
*Ngục này nằm dưới tầng đá ngầm đáy biển
ở về hướng chính Bắc, tên là “Đại Khiếu Hoán”, nghĩa là tội nặng hơn, bị hình
phạt nặng nên khóc la lớn tiếng hơn ngục thứ năm.
Có 16 Tiểu Địa Ngục là:
1. Thường Quị Thiết Sa Tiểu Địa Ngục.
(cát bằng sắt bắn vào người làm ngã ngã)
2. Thỉ Nê Tẩm Thân Tiểu Địa Ngục. (tẩm thân
thể bằng phân, nước tiểu)
3. Ma Tồi Lưu Huyết Tiểu Địa Ngục. (mài ép cho
chảy máu)
4. Kiềm Chuỷ Hàm Châm Tiểu Địa Ngục. (ngậm kim
châm,kẹp miệng)
5. Cát Thận Thử Giảo Tiểu Địa Ngục. (cắt thận
cho chuột ăn)
6. Cức Võng Huỳnh ToảnTiểu Địa Ngục. (nằm
trong lưới gai bị trùng độc cắn đốt đau đớn)
7. Đối Đảo Nhục Tương Tiểu Địa Ngục. (cối quết
thân thể nát bằm)
8. Liệt Bì Kỵ Lôi Tiểu Địa Ngục. (lột da
căng phơi)
9. Hàm Hoả Bế Hầu Tiểu Địa Ngục. (lửa đốt
trong cổ họng)
10.Tang Hoả Phí Hồng Tiểu Địa Ngục.(lửa
đốt cháy thân)
11.Phẩn Ô Tiểu Địa Ngục. (ăn phân)
12. Ngưu Điêu Mã Thao Tiểu Địa Ngục. (trâu đạp
ngựa dậm)
13. Phi Khiếu Tiểu Địa Ngục. (oằn oại rên la)
14. Táng Đầu Thoát Xác Tiểu Địa Ngục. (đập đầu
cho chết)
15. Yêu Trảm Tiểu Địa Ngục. (chém ngang lưng)
16. Bác Bì Tuyên Thảo Tiểu Địa Ngục.
(lột da phơi trên cỏ)
*Những người khi còn sống, chửi mắng trời
đất, chửi gió mắng mưa, chê nóng trách lạnh, phá hủy hình tượng thánh thần, ăn
cắp của cải đền miếu, xưng thần thánh gạt người, chẳng kính trọng kinh sách,
đem đồ dơ bẩn đổ gần đền miếu, làm ô uế đền miếu, cúng tế thánh thần bằng những
đồ nấu nướng không tinh khiết, chẳng chịu kiêng cử thịt trâu chó, chứa dấu
những sách vở đồi bại, phá hủy sách vở khuyến thiện, phá hủy tượng bát quái,
tượng thần thánh, chân nhân, kêu tên thần thánh không chút dè dặt, hủy hoại ngũ
cốc, ăn uống bỏ thừa. Đầu cơ tích trữ để làm giàu…
Những tội trên đều bị trừng phạt ở ngục Đại
Khiếu Hoán này, sau khi tra xét kỹ lưỡng thì cho đến những tiểu địa ngục thích
ứng mà chịu sự trừng phạt, tiếng kêu la vang trời, dậy đất, sự đau đớn khổ sở
kể sao cho xiết.
Thí dụ như: bế vựa chờ giá lúa cao mới
bán, để người nghèo chịu đói (bế địch trợ hoang), hoặc là gian giảo ngược
ngang, bị hành bàn chông nhọn. Chửi gió mắng mưa, kêu tên Thần Thánh chẳng chút
kiêng vì, bị cột trói ngược mà cưa xẻ cắt lưỡi.
Hành tội mãn hạn thì chuyển giao cho Ngục thứ bảy
xem xét tiếp.
*Người nào lỡ phạm tội, biết ăn năn cải hối,
vào ba ngày, 15, 16 tháng 5, phải giữ giới kiêng phòng sự, tụng kinh sám hối,
thệ nguyện không tái phạm, gắng làm lành chuộc tội… thì sẽ được Ngài Biện Thành
Vương cứu xét miễn giảm tội.
7. Thất Điện Thái Sơn Vương:
(Thái Sơn Vương của Điện thứ
bảy)
*Ngục này nằm ở dưới tầng đá ngầm đáy biển ở
về hướng Tây bắc, tên là Địa Ngục Nhiệt Não (nóng bức đau đớn trong
đầu).
Gồm có 16 tiểu địa ngục là:
1.Truỳ Tuất Tự Thôn Tiểu Địa Ngục. (tự ăn năn
đau khổ)
2. Liệt Hung Tiểu Địa Ngục. (rét lạnh ở ngực)
3. Địch Thối Hoả Bức Khanh Tiểu Địa Ngục. (xẻo
bắp vế ném vào lò lửa)
4. Xuyên quyền kháng phát Tiểu Địa Ngục. (đâm
gò má, dứt tóc)
5. Khuyển Giảo Hĩnh Cốt Tiểu Địa Ngục.
(chó ăn xương đầu gối)
7. Úc Thống Khốc Cẩu Đôn Tiểu Địa Ngục. (nhớ
lỗi xưa khổ sở, bị chó nhai nuốt)
7. Tắc Đỉnh Khai Ngạch Tiểu Địa Ngục.
(đóng đỉnh đầu xẻ trán)
8. Đỉnh Thạch Tôn Thân Tiểu Địa
Ngục. (đá sập đè thân)
9. Đoan Bảo Thượng Hạ Trác Giảo Tiểu Địa
Ngục. (chim dữ cắn mổ trên dưới)
10. Vụ Bì Trư Đà Tiểu Địa Ngục. (lột da
như da heo)
11. Điếu Giáp Túc Tiểu Địa Ngục. (rút móng
chân)
12. Bạt Thiệt Xuyên Tai Tiểu Địa Ngục.
(kéo lưỡi đâm xuyên qua má)
13. Trừu Trường Tiểu Địa Ngục. (lôi ruột ra
ngoài)
14. Loa Đạp Miêu Tước Tiểu Địa Ngục. (lừa đạp
mèo cắn)
15. Lạc Thủ Chỉ Tiểu Địa Ngục. (cắt từng ngón
tay)
16. Du Phủ Cổn Phanh Tiểu Địa Ngục. (nấu chảo
dầu sôi)
*Những người lúc còn sống, ăn uống bừa bãi, bỏ
thừa phung phí thức ăn, rượu thịt vô độ, nài ép người phải bán của cải cho mình,
trộm cắp quần áo, dấu thây chết để làm thuốc, làm ly tán thân thích của người,
mua bán tì thiếp, hiếp đáp vợ con đến chết, cờ bạc phá của, làm thầy dạy
học trò không hết lòng, dạy điều sái quấy cho học trò, truy vấn đánh đập học
trò quá ngặt khiến trò bị thương tích hay sinh bệnh, tham lấy của cải hàng xóm,
bội bạc sư trưởng, già mồm lẻo mép cãi lấy trấn áp người, xui giục bày biểu cho
người ta tranh đấu lẫn nhau, hồ đồ không tra cứu kỹ lưỡng đã kết tội người
khác…Tất cả những tội trên đều được tra xét cẩn thận ở ngục này, rồi tùy theo
tội mà cho đưa vào ngục nhỏ tương thích chịu sự trừng phạt. Xong, chuyển đến
Điện thứ tám để tra xét tiếp.
Những người khi còn sống, lấy cớ làm thuốc để
tàn sát loài vật chứ không chịu dùng thảo mộc làm thuốc. Đàn bà chế tạo món ăn
mà sát hại quá nhiều sinh vật hay món ăn mà thú nửa sống nửa chết, cũng mang
lấy tội nặng. Dù có làm phúc khác, mà không chịu ăn năn giảm bớt những việc sai
trái này, cũng không được bỏ qua nghiệp tội trên. Phải làm những việc tạo công
đức như: Phóng sinh, cứu người, bớt sát sinh, tụng kinh, kính thần, trì chú,
khuyên người tu hành làm lành, ấn tống kinh sách khuyến thiện… thì dù đã lỡ
phạm tội nhưng khi chết, được các vị “Tịnh Nghiệt Sứ Giả” (làm thanh tịnh
nghiệp tội đã tạo) dùng kính chiếu vào người đó, xóa bỏ nghiệp cũ, mới khỏi bị
tội ở ngục thứ bảy này.
Những thầy thuốc ở nhân gian dùng những thây
chết do bị lửa cháy, lấy da thịt chế thuốc, hoặc cắt lấy xương, gân, gan, mật,
đầu sọ của người mà chế tạo thành thuốc cao, thuốc bột mà buôn bán… Tội ấy
không thể tha thứ ở ngục này, dẫu có làm phúc khác mà không liên quan nghiệp
này cũng không giải được. Diêm Vương cũng nhất định bắt vào địa ngục Nhiệt
Não hành hình, chịu hết những hình phạt của các tiểu địa ngục.
Thí dụ như: Bày biểu hay cho thuốc phá
thai bị quăng lên núi lửa. Khinh khi Tam giáo bị chó phân thây. Nói tục tĩu bị
cắt lưỡi. Đàn bà có chồng còn ngoại tình với trai bị đốt nấu trong vạc
đồng. Khi xong rồi, giao cho Ngục thứ mười để đi đầu thai. Nhưng kiếp đó,
phải chịu những dị tật: đui, què, mẻ, sứt … trả đền tội cũ. Tuy nhiên, cũng có
phương pháp để hóa giải bớt là, chân thành ăn năn sám hối, thệ nguyện không tái
phạm, làm được những điều lành như:
Giúp đỡ tiền, thuốc, cơm cháo, Bắc cầu, sửa
đường cho thiên hạ đi, giúp quan tài và đồ liệm, Nhiều năm giúp cho người
nghèo, dân đói, Cất đền, miếu, sửa am, Hết lòng phụng dưỡng kính yêu cha mẹ,
cần mẫn thuốc thang giúp người khi bệnh hoạn…
*Khi làm được những việc trên, lúc quỷ sứ đến
bắt hồn người chết, Định Phúc Táo Quân thờ trong nhà người đó sẽ chấm
một điểm vào tấm lệnh bài để xác nhận, thì sau này lúc xuống ngục sẽ được miễn
giảm hình phạt.
Trên thế gian cũng có những người, vào những
năm mùa màng thất bát, khắp nơi đói rách, họ cắt thịt người chết đem bán cho
người khác ăn để sống, dã tâm ác độc vô cùng. Những người phạm tội cắt thịt
này, khi bị áp giải đến ngục thứ bảy này, Diêm Vương sẽ gia tăng hình phạt thêm
lên. Mãn hạn hình phạt thống khổ 49 ngày rồi, sẽ được giải đến Điện thứ
mười,ghi chú vào sổ sách, lại chuyển về Ngục thứ nhất để cho đầu thai làm người
hoặc súc sinh, bụng lúc nào cũng đói muốn ăn, nhưng khi thấy đồ ăn thì có mùi
hôi thúi, không dám ăn, chịu sự đói khát thường xuyên, để trả lại quả báo cũ.
*Những trường hợp lỡ phạm như thế rồi, thì
phải hết sức lập công bồi đức chuộc tội, bằng cách giúp đỡ cơm cháo cho người
đói khổ những năm bị mất mùa, lập trai đàn chẩn tế cô hồn ngạo quỷ, giúp đỡ cho
người nghèo gạo thóc thuốc men thật nhiều. Lại phải thành tâm sám hối ăn năn,
in ấn kinh sách khuyến thiện như Ngọc Lịch, Minh Thánh …để giúp người hiểu biết
làm lành tránh dữ …thì khi chết mới được Diêm vương tâu lên Ngọc Đế xin miễn
giảm tội.
Như thế đủ biết, khi còn sống
có thể che dấu để thoát vương pháp thế gian, nhưng khi chết rồi thì một mảy may
cũng không thoát khỏi đền tội. Trong
sách nói: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (lưới trời tuy thưa mà khó
lọt) là như vậy!
*Muốn sám hối những tội lỗi lỡ tạo như trên,
vào ngày 27 tháng 3, phải thành tâm sám hối, tụng kinh, day mặt về hướng Bắc mà
van vái cầu xin Ngài Thất Điện Thái Sơn Vương phù hộ độ trì cho bớt tội. Lại
phải thệ nguyện không tái phạm, làm những điều lành đã nêu thì mới mong giảm
được tội hình nơi ngục này.
8. Bát Điện Đô Thị Vương:
(Đô Thị Vương của Điện thứ tám)
*Ngục này ở dưới tầng đá ngầm đáy biển ở về
hướng chính Tây, tên là “Địa ngục Đại Nhiệt Não”.
Có 16 tiểu địa ngục là:
1. Xa Băng Tiểu Địa Ngục. (xe cán)
2. Muộn Oa Tiểu Địa Ngục. (nồi buồn rầu)
3. Toái Quả Tiểu Địa Ngục. (nghiền xương)
4. Lạo Khổng Tiểu Địa Ngục. (các lổ ra nước)
5. Tiễn Chu Tiểu Địa Ngục. (kéo cắt
thành miếng nhỏ)
6. Thường Thanh Tiểu Địa Ngục. (chuồng nhốt)
7. Đoạn Chi Tiểu Địa Ngục. (chặt tay
chân)
8. Tiễn Tạng Tiểu Địa Ngục. (xẻ các tạng
phủ)
9. Chích Tuỷ Tiểu Địa Ngục. (đâm lấy tủy)
10. Bà Trường Tiểu Địa Ngục. (kéo ruột)
11. Phần Tiều Tiểu Địa Ngục. (coi lò)
12. Khai Sinh Tiểu Địa Ngục. (bắt nhìn
thẳng)
13. Quả Hung Tiểu Địa Ngục. (đục thủng ngực)
14. Phá Đỉnh Khiếu Xỉ Tiểu Địa Ngục.
(đục đỉnh đầu, bẻ răng)
15. Trảo Cát Tiểu Địa Ngục. (cắt rút móng)
16. Cương Xoa Tiểu Địa Ngục. (cây chĩa
bằng gang)
*Những người khi còn sống trên thế
gian không hiếu thảo với cha mẹ, lúc cha mẹ còn sống không nuôi dưỡng, lúc
cha mẹ chết không lo mai táng. Thường gây ra những lo âu phiền muộn đau khổ cho
cha mẹ, ông bà, lâu ngày mà chẳng chịu hối cải. Táo Quândâng sớ tâu lên
thiên đình, giảm trừ bớt y lộc tuổi thọ của người đó. Những người nghe lời xúi
biểu của tà đạo, làm những điều ác đức xằng bậy, khi chết thì đứa con bất hiếu
tới điện nào cũng bị hành phạt hoặc bị xay, cưa, đốt, giã, bị phanh rã tim gan,
hoặc bị xe cán. Chứa xấu lừa của, trù ếm, chửi rủa, đồ dơ giặt đổ rạch sông, uế
trược đến chỗ thờ, phơi áo quần dơ không nể thần thánh v.v… bị xô xuống ao
huyết phẩn (Huyết Ô Trì)…. rồi thì đưa sang ngục thứ tám. Ngưu đầu mã diện và
ngục tối lại đưa vào các tiểu ngục ở đây để trừng phạt tiếp, chịu đựng không
biết bao nhiêu điều thống khổ, tiếng kêu khóc vang dậy gấp nhiều lần nên gọi là
“Đại nhiệt não”. Thọ hình xong mới chuyển qua ngục thứ mười cho đi đầu thai làm
súc sinh.
*Trường hợp người nào biết ăn năn cải hối, tin
tưởng vào thần thánh, Ngọc Lịch, Minh Thánh …vào ngày mùng 01 tháng 4,, tụng
kinh sám hối, thệ nguyện không tái phạm, được Ngài Đô Thị Vương phù hộ giúp đỡ.
Lại đến trước bàn thờ Táo Quân để cầu xin sám hối, thề không tái phạm, nguyện
làm việc lành …Táo Quân sẽ xác nhận bằng cách, người đó khi chết, trước
khi bị quỷ sứ dẫn đi, Táo Quân sẽ viết vào trán một trong ba chữ là: “Tuân”,
“Thuận” hay “Cải”. Như vậy, khi hồn người chết đến các điện từ thứ nhất đến thứ
bảy, các vua Diêm La sẽ giảm hình phạt một nửa hoặc hết.
*Trường hợp những người phát tâm mạnh mẽ, ra
sức sao chép in ấn các kinh sách khuyến thiện với số lượng lớn, giúp được nhiều
người hối cải làm lành, được công đức nhiều thì qua điện thứ chín tra xét không
phạm thêm tội nào nữa, chuyển sang điện thứ mười cho đi đầu thai vào nơi phúc
địa.
*Công đức ấn tống kinh sách rất
lớn, người tu học cần nên lưu ý thực hành.
9. Cửu Điện Bình Đẳng Vương:
(Bình Đẳng Vương của Điện thứ
chín)
*Ngục này nằm dưới tầng đá ngầm đáy biển ở về
hướng Tây Nam. Tên là “Đại Địa Ngục ATỳ” có lưới sắt bao quanh.
Có 16 tiểu địa ngục là:
1. Xao Cốt Chước Thân Tiểu Địa Ngục. (đập
xương gõ vào thân)
2. Trừu Cân Lôi Cốt Tiểu Địa Ngục. (kéo gân
giả xương)
3. Nha Thực Tâm Can Tiểu Địa Ngục. (quạ ăn
tim, gan)
4. Cẩu Thực Trường Phế Tiểu Địa Ngục. (chó ăn
ruột, phổi)
5. Thân Tiễn Nhiệt Du Tiểu Địa Ngục. (dìm thân
chảo dầu sôi)
6. Não Cô Bạt Thiệt Bạt Xỉ Tiểu Địa Ngục. (đai
siết quanh đầu, kéo lưỡi, kéo răng)
7. Thủ Não Vị Điền Tiểu Địa Ngục. (lấy óc trét
vào mình con nhím)
8. Chưng Đầu Quát Não Tiểu Địa Ngục. (đốt đầu
moi não)
9. Dương Súc Thành Diêm Tiểu Địa Ngục. (dê chà
xát thành bột)
10. Mộc Giáp Đỉnh Sai Tiểu Địa Ngục.
(kẹp gỗ siết đầu)
11. Ma Tâm Tiểu Địa Ngục. (mài trái tim)
12. Phí Thang Lâm Thân Tiểu Địa Ngục.
(đổ nước sôi vào thân)
13. Huỳnh Phong Tiểu Địa Ngục. (ong vàng chít
đốt)
14. Hạt Câu Tiểu Địa Ngục. (mọt đục thân thể)
15. Nghị Chú Ngao Đam Tiểu Địa Ngục. (rang
nướng giòn)
16. Tử Xích Độc Xà Toản Khổng Tiểu Địa
Ngục. (rắn độc tím, đỏ chui vào các lổ trong người)
* Người khi còn sống làm những việc cùng hung
cực ác, như tội thập ác, phải chịu sự trừng phạt theo phép nước như là xử chém,
thắt cổ cho chết v.v… đã đành, khi chết lại còn phải trải qua sự hình phạt của
nhiều địa ngục rồi cuối cùng là đến địa ngục ATỳ này.
Những tội nặng đó là: Phóng hỏa đốt nhà
cửa người, nuôi những loại trùng rắn độc để bào chế thuốc độc hại người, cho
thuốc phá thai, dùng tà pháp thu hút dương khí người nam, âm khí người nữ … để
luyện tà thuật. Viết những văn chương thi phú khêu gợi dục tình (dâm thư – sách
khiêu dâm), bào chế các loại thuốc, thức uống làm cho người mê ghiền, sa đọa,
khích dâm…
Hình phạt tội nhân ở các tiểu địa ngục như
sau:
*Thí dụ: Bớt xén tiền cất đền, miếu, tiền in
kinh, sửa ngay ra vạy, phản thầy bất trung bị quăng lên núi đao. Ăn thịt trâu
chó, sát mạng vật vô cớ, bị quạ mổ. Phân rẽ vợ chồng, thân tộc của người, viết
sách văn thơ khiêu dâm bị chó móc ruột ăn tim. Hãm hiếp hoặc dụ dỗ trẻ thơ mà
ăn của bị xay ra bột…Tội bất hiếu: cột bằng đồng nung đỏ, bắt phạm nhân
trói ôm vào cột, tay chân mình mẩy đều cháy thành than v.v…
*ATỳ địa ngục là gì ?
Chữ A có nghĩa là không, chữ Tỳ có nghĩa là
Cứu hay xen kẽ.
Cũng có nghĩa là Vô Gián. Nghĩa là không có
thời gian. Ở đây có 5 nghĩa chính:
Thứ nhất là xả thân sinh báo không có
thời gian, nghĩa là sinh rồi chết, chết rồi sinh không biết bao nhiêu lần ở
trong địa ngục.
Thứ hai là thọ khổ mãi mãi không có
niềm vui cũng không có thời gian nhất định.
Thứ ba là thời gian không hạn định, vì ở
trong vô lượng kiếp số.
Thứ tư là mệnh sống (tuổi tác) không gián
đoạn
Thứ năm là thân thể không gián đoạn.
(không mất đi)
Địa ngục này ngang dọc 8 vạn do tuần, từ một
người cho đến vô số người cũng đều chứa được đầy ắp trong đó.
Mỗi địa ngục còn có 4 địa ngục lớn nhỏ xung
quanh được vây bọc. Khi chúng sinh ra khỏi một trong 8 địa ngục Vô Gián này
rồi, thấy những địa ngục bên cạnh như nước lạnh mát mẻ, khởi tâm thích mới chạy
vào đó, không ngờ đó là địa ngục thiêu đốt, địa ngục rang nướng, cưa xẻ….tội
nhân cứ chết đi sống lại, rồi bị hành hình thọ quả. Nhiều khi muốn chết mà cũng
không thể chết được. Vì quả báo thọ chưa xong.
*Những kẻ phạm tội như dưới đây vào Vô
gián Địa Ngục: Kẻ bất hiếu với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ. Kẻ đâm chém
thần đổ máu, hủy báng thần thánh, chẳng kính chân kinh, phá hoại sự hòa hợp
chân tu. (gọi là tội ngũ nghịch).
*Kế đến, nhẹ hơn một chút là những kẻ xâm lấn
tổn hại đền miếu, làm ố uế chân tu, hay ở trong nhà chùa mà dâm dục hoặc giết,
hại nhân vật. Kẻ giả bộ thầy tu, chẳng có tâm thầy tu, dùng phá đồ vật của cải
nhà đền, lừa gạt người tại gia, làm trái giới luật, tạo ra rất nhiều tội ác. Kẻ
ăn trộm ăn cắp của cải, đồ đạc, lúa gạo, thức ăn uống, quần áo của nhà đền,
người ta không cho mà cũng lấy v.v… không vào ngục vô gián nhưng phải chịu sự
hình phạt ở hai ngục: nóng và lạnh, sau khi thân bị lửa thiêu còn bị đoạ thân
qua nơi cực lạnh, gió lạnh thổi như dao cắt toàn thân chịu thống khổ không thể
tả.
*Muốn giảm phần nào hình phạt sau này, những
người trót lỡ phạm tội nặng (trừ tội ngũ nghịch đã kể trên) phải hết sức thành
tâm ăn năn hối cải, tụng kinh sám hối, thu hồi và hủy bỏ tất cả những sản phẩm,
phương tiện sai trái đã làm, ấn tống thật nhiều kinh điển khuyến thiện, giúp
người cải dữ làm lành, cứu mệnh nhiều người, giúp đỡ cơm ăn, áo mặc, thuốc men
trị bệnh cho nhiều người nghèo đói, khổ sở v.v…rồi vào ngày mùng 8 tháng
4, vái nguyện với Ngài Bình Đẳng Vương ở Điện thứ chín xin sám hối tội lỗi đã
tạo, nhiều năm làm như vậy, sẽ được giảm bớt hình phạt ở các tiểu địa ngục và
miễn qua địa ngục lạnh.
Những người không rơi vào ngục vô gián thì sau
khi chịu hình phạt lâu dài ở ngục thứ chín này, chuyển qua ngục thứ mười cho đi
đầu thai làm kiếp thú, mãn trăm kiếp thú rồi mới được làm người. Nhưng làm
người cô độc, bị bỏ rơi, nghèo khổ, đói khát triền miên, sống tạm bợ lây lất
cho đến mãn kiếp (nghĩa là chỉ đỡ hơn địa ngục một chút thôi, gọi là dư báo).
Nhiều kiếp như thế, nếu biết ăn năn sám hối tu hành thì mới được chuyển dần đến
chỗ có phúc đức.
10. Thập Điện Chuyển Luân Vương:
(Chuyển Luân Vương của Điện Thứ
mười)
*Điện thứ mười ở dưới tầng đá ngầm của cõi U
Minh, về phía chính Đông đối với thế giới ngũ trược (trọc) này.
*Có tất cả là sáu loại cầu Nại Hà: Cầu
làm bằng vàng, bạc, ngọc, đá, gạch, cây.
Điện thứ mười là nơi nhận những quỷ hồn của
các điện khác chuyển đến. Sau khi thẩm định phúc phần của mỗi hồn, sẽ cho đi
đầu thai vào các nơi tương xứng, theo các tình trạng: nam hay nữ, giàu hay
nghèo, sang hay hèn, khôn hay ngu, thọ hay yểu v.v…Mỗi tháng, các điện sẽ
chuyển giao một lần các quỷ hồn đến đây. Việc thọ sinh (đi đầu thai) này rất
chi tiết, tỉ mỉ, phức tạp như là: đường nào trong bốn đường thai, noãn, thấp,
hóa, như loài vật thì có loài không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân.
Có loài thì tự chết, có loài thì bị giết chết…Việc đúc kết rất cẩn thận vì tầm
quan trọng lớn lao của nó. Kết quả sẽ ghi kỹ lưỡng cho mỗi quỷ hồn để đưa đến
Phong Đô đầu thai.
Thí dụ như:
*Người không kính giấy chữ (sách kinh thánh
hiền), rủ nhau ăn thịt trâu chó, phạt làm ăn mày. Không kính người lớn, chẳng
vâng lời phải, thầy dạy học trò không tốt bị người vô cớ nói xấu, khinh khi.
Người hay nói ra nói vào, xúi người kiện cáo, trước đã bị hình phạt xô xuống
cầu Nại Hà cho rắn, cua ăn thịt, nay đầu thai thành người bị vu cáo lĩnh án tù
đày…
Những nhân sĩ khi sống mà biết làm lành, tụng
kinh kính thần, trì chú v.v… khi chết, dược miễn giảm rất nhiều hình phạt ở các
ngục.
Những quỷ hồn sau khi thọ hình xong ở các
Điện, Điện thứ mười tổng kết xong, lập danh sách chi tiết rồi chuyển họ đến
“Dậu khu vong đài” (ăn cháo lú quên quá khứ) của Mạnh Bà Tôn Thần. Kế đó mới
cho đi đầu thai tùy theo phúc nghiệp cân xứng của mỗi người.
Trường hợp có những hồn ghi nhớ mãi những câu
chân ngôn thần chú của Tam Giáo, nhưng không đủ phúc báu vãng sinh, mà không
thể quên được quá khứ thì cho đi đầu thai tạm thời, chỉ sống một thời gian
ngắn, hoặc một hai ngày, hoặc vài tháng vài năm …phải chết lần nữa, trở lại
“vong đài” uống thuốc mê cho thật quên hết chân ngôn rồi mới đi đầu thai chính
thức.
Cũng có những trường hợp những người mang mãi
mối thù hận quá sâu sắc, không chịu đi đầu thai, chấp nhận kiếp ngạo quỷ để
theo đòi báo ứng cho xong, mới chịu tái sinh.
Những trường hợp như vậy cũng có rất nhiều vì
khi tại thế, đã gây tạo cho nhau quá nhiều hệ lụy, nào là phụ tình, nào là vong
ân bạc nghĩa, nào là bị lường gạt đến nỗi táng gia bại sản, nào là thù hận ganh
ghét chức vụ mà hại nhau, nào là bị áp bức quá đáng… họ đã phát thệ “nhớ mãi
không quên” nên phải đi vào con đường quanh co đau khổ này. Cho nên
biết, “oán thù nên cởi không nên buộc, chẳng những có lợi ngay trong đời này,
mà còn đỡ khổ cho lúc tái sinh đời sau”.
*Khi còn sống, phải nên tự mình làm lành rồi
nên khuyên bảo thân nhân, bè bạn, người xung quanh chung sức làm lành. Giúp đỡ,
tương trợ nhau, giúp đỡ cơm áo, gạo tiền, thuốc men cho người nghèo khổ. Sao
chép, ấn tống kinh sách khuyến thiện giúp người giác ngộ tránh dữ làm lành. Bản
thân phải lo tu học cho tốt, tụng kinh, kính thần… làm việc thiện không hề lười
mỏi. Vào ngày 17 tháng 4, vái nguyện Ngài Thập điện Chuyển Luân Vương gia trì
thêm phúc phần ở kiếp sau.
11. Đệ Thập Điện Chuyển Kiếp Sở:
(Nơi cho người đi đầu thai, ở
Điện thứ mười)
* Sở chuyển kiếp này trên dưới xung quanh đều
có hàng rào bằng sắt, bên trong chia ra làm 81 chỗ. Mỗi chỗ đều có đình đài
khang trang, có quan lại ngồi bàn làm việc. Bên ngoài hàng rào, có những con
đường nhỏ “ruột dê” (quanh co), có mười vạn tám ngàn (một trăm lẻ tám ngàn) lối
đi, uốn khúc quanh co dẫn đến “tứ đại bộ châu”.
*Bên trong sở, tối om như thùng sơn, chỉ thấy
có một con đường để cho người đi đầu thai đi ra lối đó thôi. Bên ngoài nhìn vào
giống như thủy tinh, chằng chịt nhiều đường ngang lối dọc, có các quan lại làm
việc rất bận rộn, nhưng không bao giờ có sự nhầm lẫn. Có những trường hợp xét
thêm để cho thăng hay giáng. Như người khi còn sống, có lòng hiếu thảo với cha
mẹ hoặc những người không sát sinh mà còn phóng sinh…làm được nhiều điều thiện,
sau năm lần thẩm tra, được các “thiện quan” tâu xin cho tăng thêm hưởng phúc.
Trái lại, những người sau khi thẩm tra lại, phát hiện ra còn sót tội, hoặc hình
phạt chưa đủ, thì sẽ tâu xin giáng bớt phúc, như những người bất hiếu,
sát sinh nhiều…
*Những người tội nặng, thọ vào thân súc sinh,
bị thay đầu đổi mặt, trở thành một trong bốn loài: cầm (chim), thú (bốn chân),
ngư (cá), trùng (côn trùng), là được cho đi vào những đường nhỏ quanh co. Phàm
đã thọ thân súc, thì phải trải qua rất nhiều kiếp, thai sinh thì có các thú,
noãn sinh thì có sấu, rùa, rắn, chim …, thấp sinh thì có các loài trùng bọ…Qua
nhiều kiếp như thế, mới được lên làm người. Còn những quỷ hồn chấp nhận làm
ngạo quỷ, vì không tin vào luân hồi, nhân quả, mang nặng ghi sâu những thù hận
oán hờn, sống vất va vất vưởng, không có khái niệm về thời gian. Nếu không có
những vị chân nhân có lòng Bồ Tát từ bi lập trai đàn chẩn tế và cầu siêu cho,
thì vẫn mãi mãi đói khát và không có cơ hội để đầu thai kiếp khác. Ngoài ra,
nếu lỡ bị đọa vào ATỳ địa ngục thì mãi mãi không được trở lại làm người. Như
vậy, kinh nói: “Thân người khó được”.
12. Đệ Thập Điện Mạnh Bà Thần:
(Thần
Mạnh Bà ở Điện thứ mười)
Vị thần tên Mạnh Bà này, sinh vào đời Tiền
Hán, lúc nhỏ học Nho, sau chuyển qua học Thần. Vị này có đặc điểm là “quá khứ
thì không nhớ đến, tương lai thì không nghĩ tới”, suốt đời chỉ biết khuyên
người, làm lành. Đến năm 81 tuổi mà “hạc phát đồng nhan” (tóc già như
chim hạc mà mặt vẫn như người trẻ), vẫn còn là “xử nữ” (gái trinh).
Người đời chỉ biết bà họ Mạnh, nên gọi bà là
“bà vú Mạnh Bà”. Bà vào núi tu Tiên, tồn tại mãi đến đời Hậu Hán.
Trước đây, vì con người sinh ra thì vẫn còn
nhớ đến kiếp trước, nên nhớ và tìm đến những quyến thuộc xưa, trí nhớ vẫn tốt
nên kể lại chuyện đầu thai, làm tiết lộ thiên cơ (máy trời). Do đó, Thượng Đế
mới sắc phong cho họ Mạnh làm người cai quản “Dậu khu vong đài” (đài làm quên)
có các quỷ sứ giúp việc. Khi Điện thứ mười đã có quyết định là hồn sinh vào chỗ
nào, địa vị ra sao…thì trước khi đi đầu thai, phải đến chỗ “Đài khu vong” này.
Ở đây, dùng các dược vật trên thế gian, bào chế thành một loại “như rượu mà
không phải rượu”, chia ra làm năm vị loại là : Ngọt, đắng, cay, chua, mặn.
Các hồn được chuyển thế, phải uống loại nước
này, quên đi tất cả người và sự việc, cảnh giới của đời trước. Theo thứ tự trên
mà quên đi nhiều hay ít, lâu hay mau, sâu hay cạn… tùy theo công phu tu hành và
phúc đức của kiếp trước. Vì thế, người sinh ra, có kẻ khôn người ngu, kẻ học
một biết mười, kẻ học hoài chẳng nhớ. Cũng có những người “không học mà biết”
là do uống ít “thuốc quên” này vậy.
Đài khu vong ở Điện thứ mười này, nằm phía
trước điện và bên ngoài của sáu chiếc cầu Nại hà. Đài to lớn khắp cả vùng đất.
Số phòng có đến một trăm lẻ tám gian, hướng đông có con đường đâm thẳng vào, bề
ngang hẹp chừng một thước bốn tấc (để hồn chỉ đi hàng một). Các hồn nam nữ được
đưa vào từng phòng, mỗi phòng đều có bày sẵn thức uống nói trên, do nghiệp lực
mà hồn cảm thấy khát nước nhiều ít mà uống nhiều hay ít. Còn hồn nào ương ngạnh
không chịu uống, thì dưới chân xuất hiện một cái vòng khóa chân lại, trên cổ có
một ống bằng đồng chặn đè vảo cổ, phải hả miệng ra. Chịu không nổi đau đớn nên
phải uống thật nhiều mới tha.
Sau khi uống xong, có một quỷ sứ xuất hiện,
dắt vào con đường dẫn đến chiếc cầu, bên dưới là một khe nước đỏ như máu đang
chảy xiết. Đứng trên cầu, nhìn thấy phía đối diện có một hòn đá đỏ lớn, có bốn
hàng chữ, mỗi chữ lớn bằng cái đấu (lít), viết như sau:
“Vi nhân dung dị, tố nhân nan,
Tái yếu vi nhân, khủng cánh nan.
Dục sinh phúc địa, vô nạn xứ,
Khẩu dữ tâm đồng, khước bất nan”
*Dịch:
“Là người thì dễ, làm người khó,
Muốn lại làm người, càng khó hơn.
Muốn sinh đất phúc, không tai nạn
Thì miệng giống tâm, chẳng khó gì”
*Lúc hồn đang đọc mấy hàng chữ này thì bên
phía cầu bên kia, xuất hiện hai con quỷ lớn từ dưới rẽ nước bay lên. Một con
thì đầu đội mũ “ô sa”, mình mặc áo gấm, tay cầm giấy bút, vai mang đao bén,
lưng có đeo hình cụ, trợn tròng cặp mắt, cười to ha hả…Quỷ này tên là “Hoạt Vô
Thường” (sinh không định trước). Một con nữa thì mặt mày đầy máu, mình mặc áo
trắng, tay cầm bàn tính, vai vác bao gạo, trên ngực có dán tờ giấy, hai cặp
chân mày nhăn lại, than dài thở ngắn. Quỷ này tên là “Tử Hữu Phận” (chết có
phần sẵn). Hai con quỷ này nắm chân hồn lôi kéo xuống dòng nước đỏ, tùy theo
phúc nghiệp mà đè xuống cạn sâu. Cạn thì được hưởng phúc, sâu thì phải chịu đọa
đày. Hồn lúc này ngơ ngơ ngác ngác, chẳng còn biết gì nữa, cứ lo ngóc đầu lên, thì
chốc lát đã chui ra khỏi “tử hà xa” (bào thai, tử cung) của bà mẹ, khóc
lên ba tiếng “oa oa”. Kế rồi lớn lên, ham ăn ham uống, mê mải theo đời, mê muội
“Như Lai Thần Tính”, quên hết ơn Trời, Thần, Thánh, chân nhân, chẳng nhớ làm
thiện mà cứ theo đường ác, đến mãn kiếp lại trở về với hồn ma bóng quỷ như lần
trước. Thật là tội nghiệp thay cho thân phận người không biết tu hành
để giải thoát!
Các việc kể trên là do một vị thư lại, làm
việc ở “Khu vong đài” theo lệnh Ngọc Đế ghi chép lại trong Ngọc Lịch,để phổ
biến khắp cả cho thế nhân biết mà lo tu hành, cầu đạo giải thoát.
13. Uổng Tử Thành:
*Đại Đế Phong Đô nói: “Uổng Tử Thành nằm về
bên phải của Điện thứ mười. Thế gian hay lầm nghĩ rằng, những người bị tai nạn
chết bất ngờ đều phải vào trong thành này. Nếu điều đó là thật, thì những người
chết oan chết ức đều là tốt hết cả sao? Cho đến vẫn còn thấy rất nhiều oan hồn
chưa tiêu hết phẩn hận, những kẻ tự tử, những kẻ bị hại… vẫn còn đang chịu sự
hình phạt trong các điạ ngục, chưa biết ngày nào được đi đầu thai.
Vào trong Thành Uổng Tử này, chỉ có những
người “Trung hiếu tiết nghĩa, xả thân vì nước (tận trung báo quốc), hoặc tử
tiết thành thần. Vì chết bất ngờ nên chưa thẩm định kịp, phải tạm thời ở
đây, chờ ngày để đầu thai nơi phúc địa hoặc được phong thần. Như vậy, đây là
nơi dành riêng cho những người tốt ở tạm chờ xét. Đó mới đúng là nghĩa của Uổng
Tử Vậy.
14. Huyết Ô Trì:
*Huyết Ô Trì, tức là cái ao bị vẫn đục do máu
gây nên.
Ao này nằm phía sau, bên trái của Điện thứ
mười. Người thế gian hiểu sai về ý nghĩa của nơi đây là do từ một vị Đạo Cô đã
giảng sai lúc xưa. Vị ấy nói những người đàn bà trên thế gian, khi sinh nở máu
huyết làm ô uế đất cát nên phải mang tội, lúc chết bị xuống đây, điều đó là
không đúng.
Chỉ là trường hợp những người nữ khi sinh đẻ,
bị trục trặc lâm nạn mà chết, vua Diêm Vương không xét tội của người chết đang
ô uế, nên mới cho đến đây. Chờ cho đủ mười ngày, người ấy đã tỉnh táo, tắm rửa
sạch sẽ thay đổi quần áo rồi mới cho lên điện để xét xử. Còn về việc làm ra sự
ô uế, nếu có, thì người sản phụ chỉ chịu bảy phần, người gia trưởng của nhà đó
phải chịu ba phần trách nhiệm, chứ không thể đổ hết tội lỗi cho sản phụ.
Vào trong ao này, đúng nghĩa là những người
bất luận là nam hay nữ, khi sống đã phạm tội giao hợp với nhau mà không kiêng chỗ
thờ phụng trời đất, thánh thần. Cũng không chịu kiêng cử vào những ngày Thánh
Đản, giờ kiêng. Thí dụ như ngày 14, 15 tháng năm, ngày mùng 3 và 13 tháng tám,
ngày mùng 10 tháng mười. Năm ngày ấy gọi là “Chưởng tử giới nhật” (ngày kiêng
của việc tạo ra con). Phạm vào những ngày này, có thể bị thần trừng phạt mắc ác
bệnh mà chết. Sau khi đã thọ xong hình phạt ở các ngục vì tội khác rồi, mới đưa
đến đây để bắt họ trầm mình dưới ao này, chẳng cho lên bờ.
*Lại có những kẻ hoặc nam hoặc nữ có tính hiếu
sát bừa bãi, lại bất cẩn để cho máu vương vãi, dính vào bếp táo, nơi điện thờ
thần thánh, hoặc sách vở thánh hiền, kinh điển, hoặc chén đĩa ở bàn thờ…thì đều
phạm tội.
Những người này phải chịu sự hình phạt ở các
điện về tội khác xong rồi mới đến đây để chịu phạt trầm mình dưới ao không cho
ngóc đầu lên. Muốn hóa giải tội này, người thân ở dương thế phải làm thiện, thệ
nguyện giới sát và làm thiện, phóng sinh. Làm đủ phúc rồi còn tụng thêm “Huyết
Ô Kinh Sám” (Kinh sám hối huyết ô) thì phạm nhân mới được giải tội để đi đầu
thai.
*Lại có những kẻ nam nữ ở thế gian, khi thấy
có người bị nạn mình có thể cứu được mà lại không chịu cứu, hoặc thọ ơn người
mà đã không chịu đền đáp lại còn tính kế mưu hại người ơn, cũng phải chịu tội ở
ao này. Trường hợp những người nói trên sau đó phát tâm tu hành tích lũy công
đức rất lớn, thì khi chết có thể được miễn hình phạt huyết ô, nhưng vẫn phải
chịu quả báo thành ra các loài quỷ như: ly, mỵ, vọng, lượng, sơn yêu, mộc
khách, thủy quái, cương thi (thây ma cứng biết đi), hồn vất vưởng đây kia, hoặc
nhẹ thì cũng gá tính linh vào những loài chồn, cáo, gấu, beo, cá sấu, rắn… hàng
trăm năm, nếu biết ăn năn tu tỉnh mới được đầu thai, còn nếu không chuyển hóa
được trong tâm thì vẫn mãi mãi trụ ở tình trạng như thế.
*Một điểm nữa là, ở thế gian cũng hiểu sai về
việc tin có “Thần giữ của”. Thục ra, đây chẳng phải là thần thánh gì cả, mà chỉ
là hồn ma của người lúc sống có chôn cất số của cải tài sản nào đó, khi chết
vẫn quyến luyến bám theo tài sản để giữ của. Nếu có ai đến đào lấy, họ sẽ hiện thành
ma quỷ hù nhát người đào, khiến cho người ấy có thể vì quá sợ hãi, sinh bệnh mà
chết. Những loại âm hồn kiểu này, chẳng kể là dân giả hay nho sĩ quan lại gì
cả, nếu có tính tiếc nuối của cải tài sản đều trở thành “ma giữ của”. Muốn hóa
giải nghiệp này, chỉ có cách tốt nhât là mời thỉnh những vị đạo cao đức trọng,
những vị chân tu có đạo lực, đến tổ chức trai đàn cầu siêu, thuyết pháp cho họ
nghe hiểu giác ngộ lẽ vô thường của thế gian. Chính cái thân của mình còn không
giữ được, huống nữa là tài sản của cải là những thứ từ ngoài vào, làm sao có
thể giữ cho được. Nhờ vậy, họ mới tỉnh ngộ mà phát tâm tu hành, chuyển hóa đầu
thai kiếp khác.
*Nếu không có được những vị đạo cao đức dày
khuyến hóa, thì người thân có thể tổ chức những buổi cầu siêu, những dịp chẩn
tế tập thể thật long trọng, cứu giúp được nhiều người. Sau đó, thành tâm hồi
hướng tất cả công đức làm ra “cho tất cả sinh linh được sớm thành Thần đạo”.
Được vậy mới khả dĩ hỗ trợ người thân mình thoát khỏi nạn “giữ của” này.
*Trường hợp những người vì mệnh lệnh nhà vua
mà phải lên đường chinh chiến, bất đắc dĩ phải chấp hành, nhưng trong lòng
không muốn. Trong lúc làm lính bất đắc dĩ đó, vẫn luôn thương yêu giúp đỡ bạn
bè đồng đội, tránh bắn giết bừa bãi dân chúng vô tội …nếu chẳng may bị chết, thì
được miễn những hình phạt của các ngục. Đến điện thứ nhất xem xét nghiệp lực
rồi chuyển thẳng đế điện thứ mười cho đi đầu thai vào nơi phúc địa. Còn nếu, lỡ
vào quân ngũ mà lại sinh tâm hiếu sát, bắn giết bừa bãi…thì khi chết sẽ gia
thêm hình phạt và thời gian gấp đôi.
15. Hắc Bạch Vô Thường:
*Câu “sinh không biết kỳ, tử lại có hạn” nói
lên quan điểm nhận thức của người đời đối với việc sống chết. Còn đối với
hai vị “Hắc Bạch Vô Thường” thì ai ai cũng sợ hãi, cho là hai con quỷ hại
người. Ấn tượng của thế gian là, Hắc vô thường là mặc áo đen, Bạch vô thường là
mặc áo trắng. Một hôm nào lỡ gặp hai vị này thì có nghĩa là số mệnh đình chỉ.
Nhưng có số sách vở nói rằng, đừng nên sợ hãi
khi gặp hai vị Hắc Bạch này, lúc đó chỉ cần bình tĩnh, thành tâm cầu bái và xin
hai vị cho mình “bất cứ món đồ gì”, nhất định về sau sẽ “đại phú quí” ! Cho
nên, trên bàn thờ của một số đoàn hát kịch ở một vài địa phương có thờ
hai vị Hắc Bạch Vô Thường chung với Thần Tài, mà chiếc mũ trên đầu hai vị
có ghi câu “Nhất kiến sinh tài” (một lần thấy ta ắt có tiền).
Thành
Hoàng Thông Thiên Địa Khoa Nghi
Giới
Thiệu
Hai chữ Thành Hoàng nghĩa là Thần bảo vệ thành
xã hay là Thần hộ vệ thành. Nhiệm vụ của Thành Hoàng là bảo hộ cư dân, làng,
xã, khu đô thị mới thành lập khi bị thiên tai hay loạn lạc, là Thủ Hộ Thần của
thành thị. Về sau , trải qua nhiều thời đại, Thành Hoàng được thêm những nhiệm
vụ khác như:
Cầu mưa, cầu tạnh ráo, ban phúc, giải trừ tai
nạn v.v… hình thành ông quan cai quản địa phương, thưởng thiện phạt ác, là ông
quan do Minh Phủ phái đến dương gian để cai quản dân tình.
*Với nhân gian, Thành Hoàng Gia là vị Pháp
Quan của cõi âm, có thể bổ sung cho những thiếu sót của Pháp Quan dương thế. Do
đó mà được bá tính sùng kính thờ phụng. Điều sùng bái trước tiên là tất
cả những gì liên quan đến sinh hoạt của nhân gian địa phương đều có thần chứng
giám, tỏ biết hết.
Thành Hoàng cũng có khả năng bảo hộ tính mệnh
và tài sản của dân làng. Và nhân gian thường gọi.Thành Hoàng chữa bệnh. Vì
những người bệnh lâu ngày thương ra làm lễ cầu nhanh khỏi bệnh,những ai bị mất
của có thể ra kêu nhờ Thành Hoàng trợ giúp.vì mỗi ngày có 18 vị thần ghi chép
công tội họa phúc tại miếu.
Những người bị oan đêm có thể xin mở cửa miếu
nhờ Thành Hoàng phúc dạ thẩm. Những người chết đều phải đến xin giấy thông hành
mới có thể xuống địa phủ.
Những người chết nơi đất khách quê người nếu
không được Thành Hoàng cấp giấy thì không trở về được quê hương mà mãi mãi làm
quỷ phiêu lạc nơi xứ người không có cơ hội đi đầu thai.
-Vị Thành Hoàng cai quản cả nước thì phong làm
Thiên Hạ Đô Thành Hoàng,có chức Vương,
-Vị Thành Hoàng cai quản một tỉnh thì phong
làm
Đô Thành Hoàng, cũng ở chức Vương
-Vị Thành Hoàng cai quản một Phủ thì phong làm
Phủ Thành Hoàng, có chức Công,
-Vị Thành Hoàng cai quản một châu thì phong
làm
Châu Thành Hoàng, có chức Hầu, xưng là Linh
Ứng Hầu hoặc Tuy Tĩnh Công,
-Vị Thành Hoàng cai quản một huyện thì phong
làm Huyện Thành Hoàng, có chức Bá, xưng là Hiển Hữu Bá.
*Thành Hoàng Gia đã là một vị quan địa phương
thuộc U Minh Giới, dĩ nhiên phải có nhiều cơ quan và thuộc hạ giúp việc, kể cả
tư pháp và cảnh sát nữa. Theo truyền thống, các bộ ty của Thành Hoàng gồm:
-Diên Thọ Ty (coi về tuổi thọ)
-Tốc Báo Ty (báo cáo nhanh)
-Củ Sát Ty (quan sát theo dõi)
-Tưởng Thiện Ty (ban thưởng người, việc lành)
-Phạt Ác Ty (trừng phạt kẻ, việc ác)
-Tăng Lộc Ty (ban cho phúc lộc)
Thông thường xưng là Lục Quan hoặc Lục Thần
Gia.
Chức năng và danh xưng của các Ty này tương
đồng với thế gian.
Ngoài các Ty, còn có hai Phán Quan Văn và Phán
Quan Võ, cùng với Ông Ngưu, Ông Mã, ÔngGông Cùm, Ông Xiềng Xích là bốn vị Gia
Gia.
Bên cạnh còn có hai vị Tướng Quân có vai trò
quan trọng tên là Phạm Vô Cứu(có tội miễn xét xử) và
Tạ Tất An (cúng tạ được bình an) mà dân gian
tôn xưng là Tạ thất gia và Phạm bát gia, hai vị nàylàm trợ lý cho Thành Hoàng
trong việc trừng gian trừ ác..
*Thành Hoàng Gia là vị quan cõi âm của địa
phương, theo truyền thuyết thì vào các ngày Thanh Minh,
Trung Nguyên (15/7),
Hạ Nguyên (15/10),
Thành Hoàng Gia sẽ đi tuần tra, nên dân gian
tổ chức các buổi lễ Nghênh Thần hay Xuất Hội để cúng bái Thành Hoàng, sẽ được
Ngài ban phúc lộc và bảo hộ bình an.
*Thất Gia Bát Gia
Các Miếu thờ Thành Hoàng không thể thiếu hai
vị Thất Gia, Bát Gia.
Bởi vì, mỗi khi Thành Hoàng xuất hội, công
việc. Thất Gia, Bát Gia còn gọi là
Trường Gia,
Đoản Gia (Cao Gia, Nụy Gia),
cũng gọi là hai quỷ
Hắc Bạch Vô Thường .
Tập quán dân gian thì tôn xưng là
Tạ Tướng Quân
Phạm Tướng Quân
có nhiệm vụ bắt giải các phạm nhân đưa đến
trước mặt Thành Hoàng để Ngài phán xét.
*Thất Gia họ Tạ tên Tất An, có thân cao, gò má
đen, dân gian gọi là
Hắc Vô Thường.
Bát Gia họ Phạm tên Vô Cứu,
vì thân hình lùn thấp, gò má trắng nên dân
gian gọi là
Bạch Vô Thường.
*Có người lại giải thích, tạ tất an là bị bệnh
cúng tạ Thành Hoàng thì được lành, còn phạm vô cứu là đã gây tội thì không
người nào cứu được
*Âm Dương Ty Công
Âm Dương Ty Công , là bộ hạ của THÀNH HOÀNG
gia, thân thể tự chia ra hai phần đen và trắng, hình dạng khiến trông thấy phải
khiếp sợ, trừ điều ác giúp điều lành.
Âm Dương Ty Công coi sóc về thưởng công hay
trị tội của dân gian, cùng quản lý các hồn ma quỷ trong địa phương mình.
*Tướng lạ của Ngài là gò má bên trắng bên đen,
thần khí mạnh mẽ khiến người nhìn thấy không lạnh mà run, lòng sinh e dè sợ
sệt. Sự hiện diện của Ngài góp phần duy xã đạo đức tốt đẹp và hạn chế bớt những
hành động sai phạm của dân gian.
Đa số thì Âm Dương Ty Công được thờ chung
trong Miếu Thành Hoàng . Một số nơi có xây miếu riêng để thờ.
*Văn Phán Quan Vũ Phán Quan
Văn Phán Quan phụ trách đúc kết hành động ,
việc làm thiện ác của nhân dân và tuổi thọ của mỗi người, sau đó, ghi chép
thành sổ sách, gọi là Phán Quyết Thư.Vũ Phán Quan căn cứ vào phán quyết của Văn
Phán Quan để thực hiện việc trị tội kẻ ác.Tướng dạng của Văn Phán Quan thì nho
nhã, tay cầm bút và sổ sách định đoạt mệnh vận của hồn ma quỷ. Vũ Phán Quan tay
cầm lang nha bổng (gậy răng sói) , mặt mày dữ dằn thể hiện năng lực phạt ác
trong dân gian.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét