Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2020

Hạ thủ công phu cho người Chết và người Sống






Mô Phật Đạo Tổ Từ Bi giáng kiết tường Phật Bồ Tát Ma Ha Tát .
Nhân thời Vương Quốc Vạn An, Cung Trời Đâu Suất, Di Lạc Vương Cung, khai môn tiếp nhận cho một hương linh chúng sanh về Cực Lạc Đâu Suất, thì có điều kiện yêu cầu người Tu hạ thủ công phu như sau:
Kinh Địa Tạng 10 cuốn, Lương Hoàng Sám 10 cuốn, Hồng Danh Sám Hối, Kinh A Di Đà, Kinh Phổ Môn, Cúng Phật ( Ngọ ) Thọ Trai, Chẩn Tế thượng phẩm thượng sanh, Mông Sơn Thí Thực, phóng sanh tùy ý.
Lấy số tuổi X 365 ngày = ? niệm Phật mổi ngày ( Nam 7 ngày, Nữ 9 ngày liên tục ) còn hạ thủ công phu trì Đại Bi và Thập Chú thì đọc Đại Bi 1 lần xong đọc Thập Chú đúng theo số tuổi xong đọc Bát Nhã Tâm Kinh 1 lần xong theo nghi đọc kinh mà hồi hướng hàng ngày. Tùy duyên hồi hướng. đó là cho một hương linh, còn người sống cũng y như vậy, nhưng trước khi hành trì thì lạy 4 hướng, 8 hướng, 10 hướng, tùy khả năng sức khỏe để lạy, mổi hướng 9 lạy. ( công năng công phu nầy rất linh thiêng và linh nghiệm không thể nghĩ bàn, chỉ có người thực hành mới thấy sự linh nghiệm của sự linh thiêng )
Thỉnh Hương Linh
Chơn ngôn thần lực dẫn hương linh
Từ chốn U Minh về dương thế
An tọa linh đường để nghe kinh
Tang ( Trai môn hiếu tử đồng dâng cúng …O…
Việt Nam quốc…tỉnh…huyện…xã…ấp
Hôm nay ngày…tháng…năm
Tấu thỉnh Thổ Công táo quân thiên đình
Tấu thỉnh Thổ Địa thần kỳ, Thành Hoàng xá lệnh
Nay đệ tử …có Mẫu thân (Anh, Bác, Các cụ …).
Mất ngày: ………An táng tại ……
Nay xin phép Thổ Công táo quân thiên đình, Thổ Địa thần kỳ, Thành Hoàng xá lệnh cho về nhà, địa chỉ…. tại đây hướng hiển ngày cúng…?.
Trên mời cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, thúc bá, đệ huynh, cô, di, tỷ, muội tại gia cùng về.
Hôm Nay là ngày…của: … về tại nhà … có cơm, canh, hương đăng hoa trà quả, nhang đăng vật thực tứ phẩm uy nghi.
Sau ngày cúng…thì phù hộ cho gia đình bách phúc đồng lai, trừ tai tiêu tán, phúc đức lộc thọ tài quy khứ lai, nhật tiến như nhật, vũ tiến văn thăng, tìm nơi có đức, gặp người có nhân, xin cho đất được an cư, tòng tư tử tôn được hưng vượng.
Tấu thỉnh Thổ Công táo quân thiên đình
Tấu thỉnh Thổ Địa thần kỳ, Thành Hoàng xá lệnh cho phép các người âm của nhà đệ tử…. Về thì cưỡi gió, đi thì cưỡi mây về âm phần, long thần hộ vệ , mộ trạch vạn sự tốt lành. Giãi tấm lòng thành, cúi xin đa tạ.
Hồn về Cực Lạc luôn luôn
Ngát hương sen nở hào quang sáng ngời
Chấp tay vĩnh biệt cõi đời
Quan Âm Thế Chí đón mời hồn đi
Hồn siêu nơi cõi tịnh
Nghiệp dứt chốn trần ai
Hoa sen chín phẩm vừa khai
Phật bèn thọ ký cho ngay nhứt thừa
Cầu xin chư Phật tiếp đưa
Hồn về Cực Lạc say sưa phép màu
Nguyện cho hương linh…..
Về Vương Quốc Vạn An
Cung Trời đâu suất
Di Lạc Vương Cung
Thính Pháp văn Kinh
Hưởng cảnh thái bình
Pháp giới chúng sanh
Trọn thành Phật Đạo
Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai hạ sanh Di Lạc Vương Tôn Phật.
Vô Cực Di Lạc Vương Tôn Phật ( chìa khóa vào Vương Quốc Vạn An, Cung Trời Đâu Suất, Di Lạc Vương Cung )



Phúc Đức Chánh Thần Chân Kinh








THỔ ĐỊA CHÂN KINH
PHÚC THẦN CHÚ
Phụng thỉnh phúc thần chú
Trời pháp vân thanh tịnh
Tâm tổn hại không làm
Cầu khẩn được bình an
Người nào siêng tụng đọc
Từng khắc tấu lên trời
Kinh vàng này phúc đức
Nếu tụng được cao thăng
Gấp gấp thi hành ngay

TỊNH TÂM THẦN CHÚ
Chí tâm quy mạng lễ
Chăm chăm hôm sớm làm
Chính tâm thành ý niệm
Cao thinh cùng tụng đọc
Tam tai bát nạn thảy tiêu trừ
Thân Chính không tà không vọng sợ
Sớm hôm tu hành,
Ba canh tụng đọc
Tâm hương từng trận ngát đường mây

MINH KINH CHÚ
Một quyển kinh sáng này
Giáng tạo không từ khó
Người nào siêng tụng đọc
Hay khỏi lửa đao binh
Thần linh luôn cảm ứng
Muôn kiếp thảy lìa thân
Nếu vì cha mẹ tụng
Cha mẹ hưởng thọ trường
Nếu vì người chết tụng
Người chết được cao thăng
Ngày tụng năm ba biến
Đêm niệm trăm ngàn tiếng
Chư Thần thảy mừng vui
Phúc thọ cho người lành
Gấp gấp thi hành ngay.

THÔNG THẦN CHÚ
Chí tâm quy mạng lễ
Nương chủ tu nhân
Từ bi cứu khổ
Bát nạn tam tai
Khá hay lánh trừ
Nước lửa ôn dịch
Cầu xin hộ trì
Chân linh giáng hạ
Mưa pháp thí khắp
Chúng sinh siêng niệm
Việc thiện gắng làm
Thần quang soi sáng
Chứa thiện thừa vui
Xe lớn đài tâm
Không riêng không lệch
Chân nhân tầm đạo
Rộng phát từ bi
Đại hỉ đại xả
Đại Thánh Đại từ
Có tội liền cứu
Có lỗi liền trừ
Xá tội tiêu khiên
Thức tỉnh si mê
Phụng thỉnh chủ cứu
Chân quân Đại địa
Gấp gấp thi hành ngay.

LỜI RĂN QUÝ BÁU CỦA CHÍNH THẦN
ĐÀNG CHỦ PHÚC ĐỨC
Chí tâm quy mạng lễ
Lúa thóc một phương
Phúc Thần trăm họ
Giữ lòng trung Chính
Giúp nước hộ dân
Thừa mệnh Thiên Tử
Trấn giữ một phương
Muôn dân chiêm ngưỡng
Quan chức Công Tào
Lòng son chấp chưởng
Tấu lên trời cao
Nghĩa suốt cửu thiên
Thiện ác ứng rõ ràng
Linh nghiệm khắp ba cõi
Công tội xem xét công minh
Củng cố thành trì
Giữ yên xã tắc
Tận trung tận hiếu
Chí hiển chí linh
Hộ nước giúp dân
Đại hỷ Đại xả
Phúc Đức Chính Thần
Hoàng Ân phong tặng
Thổ Cốc Tôn Thần
Ngọc Đế sắc ban
Chủ Đàn chấn cung
Thổ Địa Minh Vương
Phúc Đức Chính Thần

PHÚC ĐỨC CHÍNH THẦN GIÁNG ĐỨC KINH
Kính tụng kinh Phúc Thần Đại Thừa
Kinh văn một xem kỹ biết khắp
Thức tỉnh ngu si hành quả thiện
Tên ghi sách đỏ tiếng thơm truyền
Kinh thừa giáng tạo nào nói phiếm
Thích hợp như theo bệnh cho thuốc
Sớm chuông, chiều trống ngày ngày vang
Chúng dân chí thành tụng Kinh chương
Một nén hương thơm thấu Trời cao
Thấu Trời cao
Phúc có chỗ về
Cho không cùng
Bảo huấn chân thật của Thần Thánh
Tiếng thơm truyền mãi cùng Trời Đất
Chúng dân phụng hành Thần ta vui
Ô uế không thể lại vời họa
Thiện ác vô môn người tự chiêu
Thân Chính ý thành được lành tốt
Thiên tôn Đạo nhân giáng tạo kinh
Tu đức tăng nhân dựng Đạo tràng
Giữ vững trai giới tụng Kinh chương
Thành tâm kính Tiên công đức lớn
Cửa nhà rạng rỡ thêm kiết tường
Tay cầm não bạt khua leng keng
Rượu thịt uống ăn Đạo tràng lập
Tiên kinh ô uế đáng tiếc thay!
Cầu Thần thọ phúc lại tai ương
Phàm dân nghiêm túc nên cẩn thận
Chớ để ô uế một quyển Kinh
Lời Tiên ý Thánh sâu thăm thẳm
Áo mũ chỉnh tề cao tiếng đọc
Ta nay lâm phàm nói cùng ngươi
Chớ nên giết hại để cầu Thần
Nếu như thật tâm thành ý tụng
Rau dưa quả phẩm thảy đều nên
Nghèo khổ sang giàu đều do mạng
Thủ thường an phận chớ cưỡng cầu
Chưa từng xuống được giống mùa xuân
Tay trắng núi hoang mong gặt hái
Thiết trai diên ân cần cúng Tiên
Trước điện tiền Như Lai khải giáo
Thức tỉnh người ngu chốn thế gian
Ai nấy siêng tu gieo ruộng phúc
Thí xả mảy may ân cảm khắp
Giọt nước thêm sông chứa thiện nhiều
Không tin hãy xem Lương Vũ Đế
Thí một nón quản cả núi sông
Ngọc Đế bảo ta đến chốn này
Thuyết một hội răn dè dân ngu
Nói một thiên trở về nguồn cội
Quần sinh dốc chí làm hiền lương
Hiếu- Đễ- Trung- Tín là gốc nhân
Lễ- Nghĩa- Liêm- Sỉ ấy cội người
Tôn trọng Kinh điển cung kính tụng
Thần Trời Tiên Pháp bốn biển rạng
Kiếp mạt tuổi Trời nhiều
Cho ta tạo Kinh chương
Rộng truyền thiên hạ tụng
Người tụng được bình an
Tụng đọc được ngàn biến
Già trẻ thảy an khang
Tụng đọc được vạn biến
Cháu con đều hưng vượng
Tu hành phúc vô biên
Lập được công đức lớn
Kết duyên Tiên
Độ thuyền Từ
Cửu Huyền Thất Tổ tiếng thơm truyền
Nếu vì người mất niệm
Người mất được triêm ân
Nếu vì người điếc niệm
Người điếc lại được nghe
Nếu vì người câm niệm
Người câm thấm Thiên Ân
Bao hàm muôn vật thành hỗn độn
Cam Lộ kết thực ẩn bên trong
Hết thảy hôn mê ta thức tỉnh
Nhân quả thành toàn chốn Thiên Đường
Phúc Thần tạo Văn Kinh
Vui tặng chúng dân ngâm
Kính tặng Phúc Thần tán
Rộng cứu lũ phàm dân
Ngọc Đế khiến ta tạo
Lưu truyền văn cứu thế
Phụng Ngọc chỉ truyền khắp thế gian
Chớ khinh thường Kinh Phúc Thần ta
Chức vụ tuy nhỏ phúc đức to
Hay che chở suốt đời hưng vượng
Từ khai Thiên lập Địa đến nay
Chưa có Kinh ta truyền
Mỗi một Kinh văn có người tụng
Chính là truyền Kinh Phúc Thần ta
Thương thay dân làng
Thương thay dân làng
Cày ruộng cuốc đất cầu Thần ta
Một năm bốn mùa đều hiếu kính
Kính ta hà tất giết sinh linh
Hết thảy sinh linh đều có mạng
Sao lại bắt giết cắt cổ kia
Nghiêm trang chí thành cung kính dâng
Muông sinh bày ra trước
Đầu gà đối mặt Phúc Thần ta
Mỏ gà kêu vang đòi siêu thăng
Hai chân quỳ bày nơi bốn góc
Máu huyết vương khắp cổ tim chân
Rút ruột ra bó buộc khắp thân
Trang nghiêm chân thật kính Phúc Thần
Trang nghiêm thành ý đến nương tựa
Lại chuốc lấy tội nào phải nhỏ
Chỉ biết vị thịt thỏa miệng bụng
Không biết súc sinh nhân ấy đến
Cầm dao cướp lấy mạng sống kia
Lóc thịt ăn thây bỏ xương lông
Các ngươi ăn thịt Thần ta chịu
Đừng nghĩ tạo phúc thân ngươi tội
Lời thật Phúc Thần nói cùng ngươi
Mau mau tỉnh ngộ sửa nhân trước
Nhân trước nếu ngươi không hối sửa
Oan oan tương báo lúc nào dừng
Lục súc tứ sinh đều có mạng
Nhớ kỹ buông đao liền khỏi tội
Nếu bất cẩn giết hại muông sinh
Dương gian một khi bỏ thân người
Phúc Thần ta nói ngươi không tin
Hãy xem kinh Nhân Quả Báo Ứng
Tứ sinh lục súc từ đâu có
Đều kẻ đời trước tạo ác nhân
Nhân xấu ác nếu không tỉnh ngộ
Đọa vào súc sinh trả nợ người
Nếu là chúng sinh như ta thương
Buông đao bỏ giết khỏi tội hình
Đốt hương phụng thỉnh ta linh ứng
Sao nỡ giết hại mạng chúng sinh
Muông sinh nếu ngươi không giết hại
Tồn tâm ấy là người nhân đức
Các con theo lời ta
Chắc chắn trăm việc thịnh
Cày ruộng tụng Kinh ta
Giàu có ngàn kho thóc
Học trò tụng Kinh ta
Quan lộc tất cao thăng
Thợ thuyền tụng Kinh ta
Tiền bạc vào không dứt
Lấy vợ mua ruộng đất
Mừng vui sinh con quý
Khách buôn mang Kinh ta
Ngày bán được ngàn vàng
Hành nhân mang Kinh ta
Vạn nẻo đường bình an
Mưu sinh mang Kinh ta
Muôn sự thảy đều thành
Không vợ tụng Kinh ta
Lấy được người hiền đẹp
Nữ nhân tụng Kinh ta
Gặp người lang quân tốt
Song trúc cành cành tươi
Triều ca năm con chiếm bảng vàng
Mỗi ngay sớm mai niệm năm biến
Thù thắng hơn vạn Kinh
Một đời khỏi nạn tai
Bốn mùa được hưng vượng
Người có tâm thành kính
Cẩn thận chớ giết hại
Mùa Xuân tụng Kinh ta
Phúc Đức chứng minh cho
Rau dưa thành kính dâng
Thanh khiết là chân thật
Mùa Hạ tụng Kinh ta
Phúc Đức chứng minh cho
Quả phẩm hương vàng lạy
Tiêu tai cảnh vận mới
Mùa Thu tụng Kinh ta
Phúc Đức chứng minh cho
Quả phẩm đến cầu giúp
Sao không được Thần thông
Mùa Đông tụng Kinh ta
Phúc Đức chứng minh cho
Thường chứa nhiều rau sạch
Chớ bày việc sát sinh
Mạng sáu đường bốn loài
Luân hồi thọ khổ đau
Ta khuyên người thế gian
Giới sát thêm phóng sinh
Từ Kinh vàng của ta
Thần quản lương Phúc Đức

Trong cửa Tam Bảo phúc khéo tu
Một lời hỷ xả muôn lời tính
Kho bền chặt gởi vào cho bạn
Đời đời kiếp kiếp Phúc không cùng
Vì người làm thiện nên tích đức
Gia môn tự nhiên đắc công khanh
Nhân gì đêm nay đến loan điện
Khai ân tạo Kinh này
Khuyên người truyền Kinh giới
Thức tỉnh thoát mê tân
Công tròn siêu pháp giới
Địa ngục mãi lìa thân
Gió bão mang Kinh ta
Phong ba liền lặng yên
Ngũ ôn mang Kinh ta
Độc hại chẳng đến thân
Ngũ dịch mang Kinh ta
Nạn khổ trọn chẳng lo
Đức lớn kính Vua ta
Thần quản lương công chính
Cửa nhà thờ Kinh ta
Mừng thọ chúc tuổi cao
Gia xứ tụng Kinh ta
Học hành thi cử tốt
Trong nhà có Kinh ta
Nông dân lúa ngàn kho
Nhà nào niệm Kinh ta
Việc làm trăm nghề khéo
Môn hộ đọc Kinh ta
Buôn bán kho báu tràn
Người nào siêng tụng niệm
Tai ương mãi lìa thân
Cầu phúc sao in tặng
Mau mau đổi đường đi
Hoặc thêm phúc cùng thọ
Hoặc che chở cháu con
Cầu phúc như biển Đông
Cầu thọ tợ tùng sinh
Cầu tài thêm lợi ích
Cầu con quý song song
Người nào tuân giới ta
Tên họ thấu Trời cao
Gắng làm lành được thưởng
Trùng trùng chuyện mừng vui
Nương Vua tạo Kinh vàng
Kinh vàng là Kinh vàng
Mệnh Vua xuống phàm trần
Mở điện cứu kiếp nạn
Cứu giúp người thiện tâm
Người lành như vui thích
Tạo tội ác vào thân
Có người tụng Kinh này
Mỗi mỗi được bình yên
Thành tâm làm việc thiện
Tụng đọc vui Thần ta
Cảm động Trời xanh báo
Hay xa lánh Địa ngục
Ngọc Đế ban chỉ dụ
Theo đó cứu lương dân
Nam nữ dương gian nhiều quả thiện
Chăm niệm thấu Thiên Đình
Một nén hương thơm đều khá tụng
Nếu tụng được an thân
Có người tụng Kinh này
Đời đời kiếp kiếp nhãn quang sáng
Không người tụng Kinh này
Kiếp mạt đã kề thân
Nước lửa đao binh khó vượt qua
Thần ta phán ngươi khổ thân phàm
Thân phàm tu được chuyển thân người
Tu trở về Thiên giới
Pháp lực vô biên tạo Kinh này
Chuyên tâm thường tụng Kinh điển ta
Cực lạc nơi Thiên Đình
Trước Tiên tỏ bày nguyện ba sinh
Cõi thế khó tường tâm thiện ác
Ngộ rồi Tiên Pháp lẽ vô sinh
Hiếu đức làm nền gốc chí thành
Tôn giáo dạy người tu quả thiện
Âm dương họa phúc tự nghiêm minh
Muôn ác đâu chẳng do tham khởi
Ác tạo rồi sao khỏi lụy thân

ẤN TỐNG KINH TIÊN LỢI ÍCH LỚN
Hạnh in kinh công đức thù thắng
Nguyện Kinh vàng này truyền bá rộng
Mong sao chúng sinh thảy vâng làm
Tiêu tai tiêu nghiệp thêm của cải

HỒI HƯỚNG
Phúc Đức Chính Thần khuyên chúng dân
Từ bi giáo hóa cứu phàm trần
Tiêu tai tiêu nạn đời an lạc
Thêm phúc thêm thọ Phúc Đức vương.


Cỏi U Minh ( Thập Điện Diêm Vương )



















THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG 十殿閻王 
( Vua Diêm Vương Của Mười Điện )
Phong Đô Đại Đế cai quản Thập điện diêm vương.
Ở cõi Diêm La có mười vị vua cai quản, có nhiệm vụ và công việc khác nhau để xem xét người chết lúc còn sống trên thế gian đã phạm vào những tội lỗi  gì mà có hình phạt thích đáng.
1. Nhất Điện: Tần Quảng Vương cầm sổ sống chết.
2. Nhị Điện: Sở Giang Vương coi Đẳng Hoạt Địa Ngục
3. Tam Điện: Tống Đế Vương coi Hắc Thằng Đại Địa Ngục
4. Tứ Điện: Ngũ Quan Vương coi Chúng Hiệp Đại Địa Ngục
5. Ngũ Điện: Diêm La Vương coi Khiếu Hoán Địa Ngục
6. Lục Điện: Biện Thành Vương coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục
7. Thất Điện: Thái Sơn Vương coi Nhiệt Não Địa Ngục
8. Bát Điện: Đô Thị Vương coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục
9. Cửu Điện: Bình Đẳng Vương coi ATỳ Địa Ngục.
10. Thập Điện: Chuyển Luân Vương cho đi đầu thai.
1. Nhất Điện Tần Quảng Vương:
 (Tần Quảng Vương ở Điện thứ nhất)
Quản lý sổ sách ghi chép về tuổi thọ của con người, quản lý hết tất cả việc lành  dữ của cõi U Minh. Cung điện của Ngài ở bên dưới tầng đá ngầm đáy biển, nằm về hướng Tây của hắc lộ suối vàng.
Nếu người chết là người có làm việc thiện, thì được tiếp dẫn vãng sinh ngay. Còn nếu người chết là nam hay nữ  mà công tội ngang nhau, thì được đưa đến Điện thứ mười cho đi đầu thai, có thể nam chuyển thành nữ hay ngược lại, tùy theo nghiệp của mỗi người mà định. Nếu làm ác có ít, thì đưa vào một điện có đài cao, gọi là “Nghiệt kính (cảnh) đài”. Đài này cao một trượng, xung quanh có kiếng, treo ở hướng Đông, trên biển có đề câu: “Trước Đài Nghiệt Cảnh không người tốt”. Hồn người chết sẽ thấy lại tất cả những việc mình đã làm khi sống, bao nhiêu tội lỗi đã gây tạo, nay phải chịu sa xuống Địa Ngục chịu sự trừng phạt. Lúc này thì dù “vàng ròng cũng khó đổi” được. Sau khi xem hết các tội lỗi rồi thì chuyển qua Điện thứ hai để thọ hình phạt theo tội đã gây ra.
*Như người lúc còn sống, chẳng kính trời đất, không nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mà báo đáp, hỗn hào cãi lệnh  cha mẹ, coi thường mệnh sống, tự ải tự vẫn (thắt cổ tự tử), uống thuốc độc hoặc nhảy sông mà chết. Những người chết như thế,  ngoại trừ do bảo vệ trung hiếu tiết  nghĩa mà có hành động như vậy, tất cả người do vì sân hận, hoặc vì lý do không đáng mà tự tử, hoặc do muốn hù dọa người mà lộng giả thành chân …mà chết (thì đều phải chịu trừng phạt).
*Các vị thần Môn Táo (cửa và bếp) sẽ giải những hồn này vào điện để chịu sự đói khát, từ chập tối đến nửa đêm (giờ tuất và hợi)  phải chịu sự đau đớn sống chết. Hình phạt kéo dài hoặc 70 ngày hoặc hai, ba năm, rồi đưa hồn trở về quê quán để gặp vợ (chồng) con, nhưng không được hưởng cơm canh tiền bạc (do thân nhân cúng). Nếu người đó biết ăn năn tội lỗi thì không còn hiện những hình ảnh ghê sợ cho người, dọa nhát người đời nữa. Trải qua thời gian trừng phạt này rồi, thì thần Môn Táo lại giải xuống điện cũ để chuyển tiếp Điện thứ hai, tra xét công tội để áp dụng hình phạt thích đáng nơi ngục đó. Nếu khi sống có làm việc thiện thì có phần miễn giảm, còn toàn làm ác thì quỉ mặt xanh sẽ áp giải đến ngục khác chịu hình phạt, nếu quá nặng thì cho xuống đại Địa Ngục ATỳ, mãi mãi chịu hình phạt không cho tái sinh nữa.
Những kẻ khi sống làm nghề “thợ tụng”, tụng kinh cầu nguyện  cho người mà gian lận, bớt lời bớt chữ trong kinh (tụng nhận lớp) thì đưa sang “Bổ Kinh Sở” (nơi tụng kinh thêm cho đủ số). Nơi đây, có để kinh điển, thắp một cây đèn dầu leo lét, khi mờ khi tỏ không thể tụng đọc nhanh được. Mà khi tụng, bỏ sót một chữ sẽ bị quỉ sứ đánh đòn nên không dám sai trái. Những người này, dù ở thế gian thân nhân có rước bao nhiêu thầy đến hộ niệm đi nữa thì tội cũ vẫn không giảm được. Chỉ có trường hợp, chính người thân thiết đó, hết sức thành tâm tụng đọc, ra sức làm điều thiện và cúng lễ thần thánh, dù đọc kinh trì chú không hay miễn có đủ tâm thành thì có cảm ứng. Lúc ấy, vào sáu ngày lành mỗi tháng, sẽ có “Thần chỉ” đưa đến mà giảm tội cho.
Muốn tránh khỏi hình phạt ở địa ngục chỉ có cách là phát lòng thành tâm niệm thần để cầu vãng sinh, lập thệ nguyện hoằng pháp lợi sinh, làm nhiều việc công đức …thì khi vãng sinh được Thần tiên tiếp dẫn cứu thoát mà thôi !
*Vào ngày mùng 1 tháng hai (là ngày thánh đản của Nhất Điện Tần Quảng Vương), tụng kinh sám hối, tụng kinh Thái Ất Cứu Khổ và thực hành làm lành sẽ được Ngài phù hộ.
2. Nhị Điện Sở Giang Vương
 (Sở Giang Vương ở Điện thứ hai)
*Ngục này nằm ở đáy biển, dưới tầng đá ngầm phía chính Nam, gọi là địa ngục Đẳng Hoạt.
Gồm có 16 địa ngục nhỏ như sau:
1. Hắc Vân Sa Tiểu Địa Ngục. (cát mây đen)
2. Phẩn  Niệu Nê Tiểu Địa Ngục. (phẩn, nước tiểu, bùn)
3. Ngũ Xoa Tiểu Địa Ngục. (cây chĩa năm răng)
4. Cơ Ngạ  Tiểu Địa Ngục. (đói )
5. Tiêu Khát Tiểu Địa Ngục. (khát)
6. Nùng Huyết Tiểu Địa Ngục. (chảy  máu tươi)
7. Đồng Phủ Tiểu Địa Ngục. (búa đồng)
8. Đa Đồng Phủ Tiểu Địa Ngục. (nhiều búa đồng)
9. Thiết Khải Tiểu Địa Ngục. (giáp bằng sắt)
10. U Lương  Tiểu Địa Ngục. (tối tăm)
11. Kê Tiểu Địa Ngục. (gà cắn mổ)
12. Hôi Hà Tiểu Địa Ngục. (tro than, sông nước)
13. Chước Tiệt Tiểu Địa Ngục. (chặt cắt)
14. Kiếm Diệp Tiểu Địa Ngục. (kiếm bén)
15. Hồ Lang Tiểu Địa Ngục. (chồn sói)
16. Hàn Băng Tiểu Địa Ngục. (băng lạnh)
*Người thế gian phạm vào tội lừa gạt thiếu niên nam nữ, buôn bán trẻ em, cưỡng đoạt thân thể đoạt tài sản của chúng, không rõ nghề bốc thuốc cho người làm tổn hại đến mắt, lỗ tai, tay, chân của họ, không tha đầy tớ gái già, tham cầu lợi lộc mà làm mai mối hôn nhân, dấu giếm (khai gian) tuổi tác, đến nhà người sinh sự, nam nữ làm điều dối gian, nói không thật lời. Phạm tội loạn luân. Làm quan ăn của hối lộ…
Những người này khi chết, sau khi ở Nghiệt Cảnh Đài đã tra ra tội phạm nhiều ít, thời gian phạm lâu mau, có cố ý hay vô tình …thì cho quỷ tóc đỏ răng nanh dẫn đi đến địa ngục nhỏ tương ứng để thọ tội.
Thí dụ như: Phạm tội loạn luân, bị cắt (thiến) thận, làm quan tính kế đảo điên, ăn hối lộ, bị nhốt trong hỏa xa, đêm vắng toan mưu dối, bị cát mây đen đè mình, xúi trẻ thơ lầm lỗi bị cầm trong ngục giá lạnh. Mãn kỳ thọ tội này thì chuyển sang ngục thứ ba để định tiếp.
Người nào trên thế gian thường biết nói điều hay trong kinh Ngọc Lịch để giáo hóa người khác hoặc ấn tống kinh điển giúp người giác ngộ, thương yêu chúng sinh, dạy dỗ điều lành tốt cho trẻ em, không tàn hại côn trùng, làm các việc thuốc men cho người bệnh, cơm cháo cho người nghèo đói, giúp tiền bạc để cứu giúp người nghèo khổ, biết ăn năn tội lỗi đã lỡ gây tạo thì được miễn trừng phạt nơi ngục này, mà đưa thẳng xuống Điện thứ mười để đầu thai kiếp khác.
*Vào ngày mùng 01 tháng 3 tụng kinh Thái Ất Cứu Khổ thực hành làm thiện, hành thiện phóng sinh, thì được Ngài Nhị Điện Sở Giang Vương phù hộ. 
3.  Tam Điện Tống Đế Vương: 
 (Tống Đế Vương ở Điện thứ ba)
Ngục này nằm dưới tầng đá ngầm hướng Đông Nam đáy biển, tên gọi là “Hắc Thằng Địa Ngục” (dây đen).
Có tất cả 16 địa ngục nhỏ như sau:
1.Hàm Lỗ Tiểu Địa Ngục. (muối mặn)
2. Ma Hoán Già  Nữ tiểu Địa Ngục. (gông xiềng)
3. Xuyên Lặc Tiểu Địa Ngục. (xỏ gân)
4. Đồng Thiết Quát Kiểm Tiểu Địa Ngục. (đồng sắt nạo gò má)
5. Quát Chi  Tiểu Địa Ngục. (nạo chảy mỡ)
6. Kiềm Tễ Tâm Can Tiểu Địa Ngục. (đóng vào tim gan)
7. Oát Nhãn Tiểu Địa Ngục. (móc  mắt)
8. Sản Bì Tiểu Địa Ngục. (phanh da)
9. Nguyệt Túc Tiểu Địa Ngục. (cắt chân)
10. Bạt Thủ Cước Giáp Tiểu Địa Ngục. (rút móng tay chân)
11. Hấp Huyết Tiểu Địa Ngục. (hút máu)
12. Đảo Điếu Tiểu Địa Ngục. (treo ngược rút lên)
13. Phân  Tuỷ Tiểu Địa Ngục. (xẻ xương tủy)
14. Thư Chú Tiểu Địa Ngục. (ăn giòi bọ)
15. Kích Tất Tiểu Địa Ngục. (đánh vào đầu gối)
16. Bà Tâm Tiểu Địa Ngục. (bóp trái tim)
*Người lúc còn sống khi làm quan, chẳng nghĩ ơn đức lớn lao của vua (đất nước), mệnh sống người dân là quan trọng, chỉ biết hưởng thụ lợi lộc mà không làm tròn bản phận, chẳng màng  dân chúng khổ sở đói rét. Người dân thường thì thấy lợi bỏ quên ân nghĩa, chồng bất nghĩa, vợ chẳng hòa thuận, làm con nuôi của người thọ lãnh ân huệ của họ mà vì muốn chiếm đoạt tài sản sinh ra vong ân bội nghĩa, đày tớ mà phụ ơn chủ nhà, binh lính phụ ơn của người chỉ huy, công nhân phụ ơn nghĩa của giám đốc, hoặc phạm tội vượt ngục hoặc quân nhân đào ngũ,  không làm tròn chức trách của trên giao phó…Phạm những lỗi trên mà không chịu sám hối thì tuy có làm điều lành đi nữa cũng không bớt được tội cũ (phải có sự ăn năn sám hối mới được)
Thêm nữa, những vị thầy sư sãi coi xem nhà cửa mồ mã cho người, học không đến nơi đến chốn, làm sai lệch mà lấy tiền người. Hoặc đào mồ cuốc mã thiên hạ, chiếm đất nghĩa địa. Hoặc dụ dỗ người làm việc phi pháp.
Giết người lấy của, đi săn bắn, bị cọp xé thây, gian dâm vợ người, sửa chữa giả mạo giấy tờ, người có chuyện di chúc, gởi gắm mình mà mình không chịu thực hiện, đốt phá nhà cửa người, đòi nợ xiết của người khác, làm sách giả nguy hại đời sau…
Sau khi tra xét tường tận, sẽ cho Đại Lực Quỷ đưa vào tiểu ngục thích ứng  chịu trừng phạt theo tội lỗi đã làm. Thọ hết hình phạt, lại chuyển sang ngục thứ tư để tra xét tiếp.
*Ngày mùng tám tháng hai,  tụng kinh Thái Ất Cứu Khổ và thực hiện việc làm lành, tụng kinh sám hối nếu lỡ gây ra những  tội đã  nêu trên, thì sẽ được Ngài  Tam Điện Tống Đế Vương hộ trì miễn giảm tội khiên.
 4. Tứ Điện Ngũ Quan Vương 
(Ngũ Quan Vương ở Điện thứ tư)
Ngục thứ tư nằm ở dưới tầng đá ngầm biển, ở về hướng Đông. Ngục này có tên là “Chúng Hợp Địa Ngục” (đối xử với người).
Có 16 tiểu ngục là:
1. Thạch Trì Tiểu Địa Ngục. (ao có bờ vách bằng đá)
2. Miêu Luyện Trúc Tiêm Tiểu Địa Ngục. (rớt xuống bàn chông tre)
3. Phí Thang Nhiễu Thủ Tiểu Địa Ngục. (nước sôi)
4. Chưởng Bạn Lưu Dịch Tiểu Địa Ngục. (trấn nước)
5. Đoạn  Cân  Dị Cốt Tiểu Địa Ngục. (cắt gân)
6. Yển Kiên Loát  Bì Tiểu Địa Ngục. (xẻ vai lột da)
7. Toả Phu Tiểu Địa Ngục. (căng da)
8. Tồn Phong Tiểu Địa Ngục. (ngồi trên mũi nhọn)
9. Thiết Y  Tiểu Địa Ngục. (áo sắt)
10. Mộc Thạch Thổ Ngoã Áp Tiểu Địa Ngục. (gạch ngói đá đè)
11. Kiếm Nhãn Tiểu Địa Ngục. (dùng kiếm khoét mắt)
12. Phi Hôi Tắc  Khẩu Tiểu Địa Ngục. (nhét tro bịt miệng)
13. Quán Dược Tiểu Địa Ngục. (rót thuốc)
14. Du Đậu Hoạt Trật Tiểu Địa Ngục. (đi đường đổ dầu trơn trợt cho ngã )
15. Thích  Chuỷ Tiểu Địa Ngục. (đâm vào miệng)
16. Toái Thạch Mai  Thân Tiểu Địa Ngục. (đá đè chôn thân)
*Người sống ở thế gian mà trốn sưu lậu thuế, không nộp tô tức, dùng hai cái cân để gian lận, lường thưng tráo đấu, bào chế thuốc giả, bán gạo ẩm mốc, xài tiền giả, tráo xén bớt tiền, bán dầu bột quá hạn, may vá ăn xén vải vóc, cho vay ăn lời quá vốn, đi đường gặp người già tàn tật không nhường bước, bắt người khác phục dịch quá đáng, nhận thư tín tin tức người nhờ chuyển mà không sớm chuyển giao, lăn cây đá chặn đường đi, lấy trộm dầu thắp đèn đường, nghèo mà không chịu siêng năng làm ăn lại chê trách người, giàu mà không cứu giúp kẻ khó, giả bộ đi mượn tiền để người khác khỏi mượn mình, làm bộ đói rách để xin của người, thấy người khác bệnh nhà mình có thuốc (sách, bài thuốc hay) mà không cho, dấu diếm thuốc gia truyền để làm giàu, chăn nuôi súc vật đổ phân, nước tiểu ra đường làm hôi thúi người đi đường, đổ rác ra giữa đường đi, trù ếm làm hại người, bỏ cha mẹ trốn lánh tự tử, bỏ  hoang ruộng đất, làm cây cối ngã sập nhà, tường người, phách lối mắng nhiếc người …
Sau khi tra xét kỹ, tùy theo tội lỗi mà đưa vào địa ngục thích ứng để chịu sự trừng phạt khổ sở, mãn hạn chuyển sang Địa ngục thứ năm để tra xét tiếp.
*Những người còn sống ở thế gian, vào ngày 18 tháng 2, tụng kinh sám hối tự hứa không tái phạm những lỗi trên nữa. Tự mình hoặc góp phần vào việc ấn tống kinh sách như Ngọc Lịch, Kinh Nhân Quả … để cảm hóa chúng sinh, cho họ biết làm lành tránh dữ, thì được Ngài Tứ  Điện Ngũ Quan Vương phù hộ và miễn giảm tội cũ trót lỡ gây ra.
5.  Ngũ Điện Diêm La Vương 
(Diêm La Vương ở Điện thứ năm)
*Vua Diêm La nói rằng:“Trước đây ta ở Điện thứ nhất, vì thương hại người chết than thở là chưa làm tròn nguyện ước, ta cho họ hoàn dương sống lại để làm cho xong, nên bị Thượng Đế điều sang cai quản ở đây. Ngục này tên là ngục “Khiếu (Kiếu) Hoán” (kêu la rên xiết), nằm dưới tầng đá ngầm đáy biển ở hướng Đông bắc. Có tất cả 16 Tiểu Địa Ngục đều gọi là “Đẳng Tâm” (chặt đứt trái tim).
Những phạm nhân trước khi đưa đến đây đều trải qua thời gian thọ tội nhiều năm ở ngục khác. Nơi ngục thứ tư, việc tra xét không quá bảy ngày rồi chuyển sang đây, để khai thêm về những việc không làm ác lúc còn sống. Phần lớn, các hồn quỷ thường khai rằng: “Trên thế gian chưa làm xong nguyện vọng như xây cất đền, miếu, viện, đào giếng vét sông, làm chưa xong việc ấn tống kinh điển khuyến thiện, hoặc phóng sinh chưa xong, hoặc chưa lo xong việc chuẩn bị hậu sự cho song thân, hoặc mang ơn chưa kịp đền đáp, xin cho được trở về để hoàn thành tâm nguyện, hẹn chẳng sai lời, hứa sẽ làm người tốt”. Ta nghe như thế, bèn nói:“Các ngươi, lúc trước có làm ác hay không, quỷ thần đã biết, hãy thành thật nhận tội đi. Nếu cõi âm ty không có quỷ oán hận thì lúc ở dương gian là không có người oán hờn. Người tu hành chân chính ở thế gian không có nhiều đâu. Nay đã đến đây, ta sẽ cho xem ở Nghiệt Cảnh thì biết hết sự thật rồi, đừng nói nhiều lời nữa!”. Nói rồi, ta sai ngưu đầu mã diện giải phạm nhân đến “Đài  Vọng Hương” để nhìn về quê xưa của họ. Đài này cong như cây cung, có ba mặt đông, tây và nam. Chiều cong dài tám trăm mười dặm, còn phía bắc thì có một rừng kiếm làm thành trì. Đài này cao bốn mươi chín trượng, có núi đao tua tủa. Bậc thang có sáu mươi ba cấp. Những người lương thiện thì khỏi bắt lên đài này, người công và tội bằng nhau thì được cho đi đầu thai. Chỉ có những kẻ làm ác thì phải lên mà thôi. Lên trên đài này rồi, thì sẽ thấy quê nhà kế bên, người thân nói gì cũng nghe thấy. Nghe được những lời con cháu tranh giành của cải tài sản, không chịu thực hiện di chúc, không thực hiện lời dặn dò trăn trối. Kế thấy những cảnh thay đổi sau khi mình chết, sự vật khác xưa, mỗi mỗi đều thay, chẳng còn gì là của mình. Người thân là chồng thì muốn cưới vợ khác, người thân là vợ thì muốn lấy chồng khác, con cái thì tranh nhau tài sản, đánh lộn đánh láo, chửi mắng nhau. Bà con thân thiết và bạn bè cũng chẳng ai nhớ đến mình, con cái nheo nhóc khổ sở v.v…Thấy những cảnh ấy rồi, những hồn người chết la khóc inh ỏi, dập đầu đập trán, nhào lộn tức tối, đau khổ muôn phần…Như thế rồi lại nhìn thấy tiếp những cảnh tượng người thân bị trả quả báo (của mình gây ra) như là: Trai bị bắt giam, nữ thì sinh quái thai, con trai bị dụ dỗ sa đọa, con gái bị gian dâm. Sự nghiệp của mình bị tiêu tan, nhà cửa bị cháy rụi, tất cả trong nhà đều bị tiêu sạch…khi ấy quỷ hồn hối hận ăn năn thì đã quá muộn.
Sau đó, cho trở về trong điện để tra xét tiếp rồi tùy theo tội lớn nhỏ nhiều ít lâu mau … mà đưa đến các Tiểu Địa Ngục để chịu sự trừng phạt. Trong các Tiểu Địa Ngục này, có các cọc gỗ nhọn, chó sắt, rắn đồng, gông xiềng tay chân. Quỷ dùng con dao nhỏ, mổ một đường ở bụng, vạch bày ra trái tim, cắt xẻ ra từng miếng để ném cho rắn ăn, ruột thì cho chó ăn. Chịu sự trừng phạt một ngày, thì chỗ mổ lành lại, đem giam vào ngục để sau hành hạ tiếp.
Các Tiểu Địa Ngục là:
1. Người chẳng kính quỷ thần, không tin vào nhân quả sẽ đưa vào  Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
2. Giết hại sinh vật cũng cho vào Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
3. Có lời vái nguyện mà chưa cúng trả lễ: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
4. Theo học tà thuật mong cầu được trường sinh: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
5. Hận người trù rủa cầu cho người mau chết: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
6. Mưu tính kế hại người: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
7. Người nam mà dụ dỗ người nữ vào con đường thất tiết: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
8. Làm việc tổn hại người lợi mình: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
9. Bỏn xẻn tiếc nuối tài vật mà chẳng màng sống chết: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
10. Nuôi nấng người rồi cho đi ăn trộm: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
11. Lấy oán báo ân: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
12. Đam mê cờ bạc táng gia bại sản: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
13. Lừa gạt người: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
14. Dùng lời nói sai quấy xúi bảo người làm bậy: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
15. Có tâm ganh ghét người hiền: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
16. Hay mắng nhiếc người: Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục.
*Những người không tin nhân quả, cản trở người làm việc lành, mượn tiếng đi chùa miếu dâng hương để xúi biểu người làm quấy, thiêu đốt kinh sách dạy người làm lành, xúi người phá giới, ngăn cản người làm ác biết ăn năn sám hối, biết đạo mà không giữ giới, phỉ báng Thần, chẳng chịu nghe theo lời dạy đạo tu hành, mà còn xúi bảo người khác đi vào đường sai quấy như mình, đào mồ cuốc mả người khác, thiêu đốt rừng núi, cho gia đình di chuyển trước rồi đốt nhà phá xóm giềng, dùng cung tên súng đạn bắn lén người, bức ép người khác khiến họ rầu rĩ mà sinh bệnh, ném đá, gạch ngói lên mái nhà người, dùng thuốc độc hại cá, giăng lưới bắt chim, dùng muối tưới cây cỏ chết, thả rắn rết độc trùng làm hại người đến chết, giả mạo chức tước để hại người, chiếm đoạt nhà đất người, lấp giếng ngăn chận mương rãnh phá hoại nhà người …
Những kẻ phạm vào những tội lỗi trên, cho lên Vọng Hương Đài để xem hết những tội đã phạm cùng hậu quả báo ứng, rồi cho vào địa ngục Khiếu Oán, để họ tự ăn năn dày vò, đau khổ, khóc than một mình. Kế đó mới tùy theo tội mà chuyển đến Tiểu Địa Ngục thích ứng mà hành tội tiếp. Thọ tội xong, chuyển đến Điện thứ sáu để tra xét tiếp.
Những người khi còn sống không phạm những tội đã nêu hoặc lỡ phạm mà vào ngày mùng 8 tháng giêng, tụng kinh sám hối, phát thệ không tái phạm, thì được miễn hình phạt ở ngục thứ năm này, chuyển sang ngục thứ sáu xem xét.
Nhưng người phạm vào các tội: Giết người hại con vật lớn, theo bè đảng tà ngụy, gian dâm phụ nữ, bắt ép vợ người phải thất tiết, nuôi người trộm cắp, những kẻ lấy oán báo ân, những người si mê chấp chặt không chịu ăn năn sửa đổi, thì không được tha thứ miễn giảm.
 6. Lục Điện Biện Thành Vương:
(Biện Thành Vương ở Điện thứ sáu)
*Ngục này nằm dưới tầng đá ngầm đáy  biển ở về hướng chính Bắc, tên là “Đại Khiếu Hoán”, nghĩa là tội nặng hơn, bị hình phạt nặng nên khóc la lớn tiếng hơn ngục thứ năm.
Có 16 Tiểu Địa Ngục là:
1. Thường Quị  Thiết Sa Tiểu Địa Ngục. (cát bằng sắt bắn vào người làm ngã ngã)
2. Thỉ Nê Tẩm Thân Tiểu Địa Ngục. (tẩm thân thể bằng phân, nước tiểu)
3. Ma Tồi Lưu Huyết Tiểu Địa Ngục. (mài ép cho chảy máu)
4. Kiềm Chuỷ Hàm Châm Tiểu Địa Ngục. (ngậm kim châm,kẹp miệng)
5. Cát Thận Thử Giảo Tiểu Địa Ngục. (cắt thận cho chuột ăn)
6. Cức Võng Huỳnh ToảnTiểu Địa Ngục. (nằm trong lưới gai bị trùng độc cắn đốt đau đớn)
7. Đối Đảo Nhục Tương Tiểu Địa Ngục. (cối quết thân thể nát bằm)
8. Liệt Bì Kỵ  Lôi Tiểu Địa Ngục. (lột da căng phơi)
9. Hàm Hoả Bế Hầu Tiểu Địa Ngục. (lửa đốt trong cổ họng)
10.Tang Hoả  Phí Hồng Tiểu Địa Ngục.(lửa đốt cháy thân)
11.Phẩn  Ô Tiểu Địa Ngục. (ăn phân)
12. Ngưu Điêu Mã Thao Tiểu Địa Ngục. (trâu đạp ngựa dậm)
13. Phi Khiếu Tiểu Địa Ngục. (oằn oại rên la)
14. Táng Đầu Thoát Xác Tiểu Địa Ngục. (đập đầu cho chết)
15. Yêu Trảm Tiểu Địa Ngục. (chém ngang lưng)
16. Bác  Bì Tuyên Thảo Tiểu Địa Ngục. (lột da phơi trên cỏ)
*Những người khi còn sống, chửi mắng trời đất, chửi gió mắng mưa, chê nóng trách lạnh, phá hủy hình tượng thánh thần, ăn cắp của cải đền miếu, xưng thần thánh gạt người, chẳng kính trọng kinh sách, đem đồ dơ bẩn đổ gần đền miếu, làm ô uế đền miếu, cúng tế thánh thần bằng những đồ nấu nướng không tinh khiết, chẳng chịu kiêng cử thịt trâu chó, chứa dấu những sách vở đồi bại, phá hủy sách vở khuyến thiện, phá hủy tượng bát quái, tượng thần thánh, chân nhân, kêu tên thần thánh không chút dè dặt, hủy hoại ngũ cốc, ăn uống bỏ thừa. Đầu cơ tích trữ để làm giàu…
Những tội trên đều bị trừng phạt ở ngục Đại Khiếu Hoán này, sau khi tra xét kỹ lưỡng thì cho đến những tiểu địa ngục thích ứng mà chịu sự trừng phạt, tiếng kêu la vang trời, dậy đất, sự đau đớn khổ sở kể sao cho xiết.
Thí dụ như: bế vựa chờ giá lúa cao mới bán, để người nghèo chịu đói (bế địch trợ hoang), hoặc là gian giảo ngược ngang, bị hành bàn chông nhọn. Chửi gió mắng mưa, kêu tên Thần Thánh chẳng chút kiêng vì, bị cột trói ngược mà cưa xẻ cắt lưỡi.
Hành tội mãn hạn thì chuyển giao cho Ngục thứ bảy xem xét tiếp.
*Người nào lỡ phạm tội, biết ăn năn cải hối, vào ba ngày, 15, 16 tháng 5, phải giữ giới kiêng phòng sự, tụng kinh sám hối, thệ nguyện không tái phạm, gắng làm lành chuộc tội… thì sẽ được Ngài Biện Thành Vương cứu xét miễn giảm tội.
7. Thất Điện Thái Sơn Vương:
(Thái Sơn Vương của Điện thứ bảy)
*Ngục này nằm ở dưới tầng đá ngầm đáy biển ở về hướng Tây bắc, tên là Địa Ngục Nhiệt Não (nóng bức đau đớn trong đầu).
Gồm có 16 tiểu địa ngục là:
1.Truỳ Tuất Tự Thôn Tiểu Địa Ngục. (tự ăn năn đau khổ)
2. Liệt Hung Tiểu Địa Ngục. (rét lạnh ở ngực)
3. Địch Thối Hoả Bức Khanh Tiểu Địa Ngục. (xẻo bắp vế ném vào lò lửa)
4. Xuyên quyền kháng phát Tiểu Địa Ngục. (đâm gò má, dứt tóc)
5. Khuyển Giảo Hĩnh  Cốt Tiểu Địa Ngục. (chó ăn xương đầu gối)
7. Úc Thống Khốc Cẩu Đôn Tiểu Địa Ngục. (nhớ lỗi xưa khổ sở, bị chó nhai nuốt)
7. Tắc Đỉnh  Khai Ngạch Tiểu Địa Ngục. (đóng đỉnh đầu xẻ trán)
8. Đỉnh  Thạch Tôn  Thân Tiểu Địa Ngục. (đá sập đè thân)
9. Đoan Bảo Thượng  Hạ Trác Giảo Tiểu Địa Ngục. (chim dữ cắn mổ trên dưới)
10. Vụ Bì Trư Đà  Tiểu Địa Ngục. (lột da như da heo)
11. Điếu Giáp Túc Tiểu Địa Ngục. (rút móng chân)
12. Bạt Thiệt Xuyên Tai  Tiểu Địa Ngục. (kéo lưỡi đâm xuyên qua má)
13. Trừu Trường Tiểu Địa Ngục. (lôi ruột ra ngoài)
14. Loa Đạp Miêu Tước Tiểu Địa Ngục. (lừa đạp mèo cắn)
15. Lạc Thủ Chỉ Tiểu Địa Ngục. (cắt từng ngón tay)
16. Du Phủ Cổn Phanh Tiểu Địa Ngục. (nấu chảo dầu sôi)
*Những người lúc còn sống, ăn uống bừa bãi, bỏ thừa phung phí thức ăn, rượu thịt vô độ, nài ép người phải bán của cải cho mình, trộm cắp quần áo, dấu thây chết để làm thuốc, làm ly tán thân thích của người, mua bán tì thiếp, hiếp đáp vợ con  đến chết, cờ bạc phá của, làm thầy dạy học trò không hết lòng, dạy điều sái quấy cho học trò, truy vấn đánh đập học trò quá ngặt khiến trò bị thương tích hay sinh bệnh, tham lấy của cải hàng xóm, bội bạc sư trưởng, già mồm lẻo mép cãi lấy trấn áp người, xui giục bày biểu cho người ta tranh đấu lẫn nhau, hồ đồ không tra cứu kỹ lưỡng đã kết tội người khác…Tất cả những tội trên đều được tra xét cẩn thận ở ngục này, rồi tùy theo tội mà cho đưa vào ngục nhỏ tương thích chịu sự trừng phạt. Xong, chuyển đến Điện thứ tám để tra xét tiếp.
Những người khi còn sống, lấy cớ làm thuốc để tàn sát loài vật chứ không chịu dùng thảo mộc làm thuốc. Đàn bà chế tạo món ăn mà sát hại quá nhiều sinh vật hay món ăn mà thú nửa sống nửa chết, cũng mang lấy tội nặng. Dù có làm phúc khác, mà không chịu ăn năn giảm bớt những việc sai trái này, cũng không được bỏ qua nghiệp tội trên. Phải làm những việc tạo công đức như: Phóng sinh, cứu người, bớt sát sinh, tụng kinh, kính thần, trì chú, khuyên người tu hành làm lành, ấn tống kinh sách khuyến thiện… thì dù đã lỡ phạm tội nhưng khi chết, được các vị “Tịnh Nghiệt Sứ Giả” (làm thanh tịnh nghiệp tội đã tạo) dùng kính chiếu vào người đó, xóa bỏ nghiệp cũ, mới khỏi bị tội ở ngục thứ bảy này.
Những thầy thuốc ở nhân gian dùng những thây chết do bị lửa cháy, lấy da thịt chế thuốc, hoặc cắt lấy xương, gân, gan, mật, đầu sọ của người mà chế tạo thành thuốc cao, thuốc bột mà buôn bán… Tội ấy không thể tha thứ ở ngục này, dẫu có làm phúc khác mà không liên quan nghiệp này cũng không giải được. Diêm Vương cũng nhất định bắt vào địa ngục Nhiệt Não hành hình, chịu hết những hình phạt của các tiểu địa ngục.
Thí dụ như: Bày biểu hay cho thuốc phá thai bị quăng lên núi lửa. Khinh khi Tam giáo bị chó phân thây. Nói tục tĩu bị cắt lưỡi. Đàn bà có chồng còn ngoại tình với trai bị đốt nấu trong vạc đồng. Khi xong rồi, giao cho Ngục thứ mười để đi đầu thai. Nhưng kiếp đó, phải chịu những dị tật: đui, què, mẻ, sứt … trả đền tội cũ. Tuy nhiên, cũng có phương pháp để hóa giải bớt là, chân thành ăn năn sám hối, thệ nguyện không tái phạm, làm được những điều lành như:
Giúp đỡ tiền, thuốc, cơm cháo, Bắc cầu, sửa đường cho thiên hạ đi, giúp quan tài và đồ liệm, Nhiều năm giúp cho người nghèo, dân đói, Cất đền, miếu, sửa am, Hết lòng phụng dưỡng kính yêu cha mẹ, cần mẫn thuốc thang giúp người khi bệnh hoạn…
*Khi làm được những việc trên, lúc quỷ sứ đến bắt hồn người chết, Định Phúc Táo Quân thờ trong nhà người đó sẽ chấm một điểm vào tấm lệnh bài để xác nhận, thì sau này lúc xuống ngục sẽ được miễn giảm hình phạt.
Trên thế gian cũng có những người, vào những năm mùa màng thất bát, khắp nơi đói rách, họ cắt thịt người chết đem bán cho người khác ăn để sống, dã tâm ác độc vô cùng. Những người phạm tội cắt thịt này, khi bị áp giải đến ngục thứ bảy này, Diêm Vương sẽ gia tăng hình phạt thêm lên. Mãn hạn hình phạt thống khổ 49 ngày rồi, sẽ được giải đến Điện thứ mười,ghi chú vào sổ sách, lại chuyển về Ngục thứ nhất để cho đầu thai làm người hoặc súc sinh, bụng lúc nào cũng đói muốn ăn, nhưng khi thấy đồ ăn thì có mùi hôi thúi, không dám ăn, chịu sự đói khát thường xuyên, để trả lại quả báo cũ.
*Những trường hợp lỡ phạm như thế rồi, thì phải hết sức lập công bồi đức chuộc tội, bằng cách giúp đỡ cơm cháo cho người đói khổ những năm bị mất mùa, lập trai đàn chẩn tế cô hồn ngạo quỷ, giúp đỡ cho người nghèo gạo thóc thuốc men thật nhiều. Lại phải thành tâm sám hối ăn năn, in ấn kinh sách khuyến thiện như Ngọc Lịch, Minh Thánh …để giúp người hiểu biết làm lành tránh dữ …thì khi chết mới được Diêm vương tâu lên Ngọc Đế xin miễn giảm tội.
Như thế đủ biết, khi còn sống có thể che dấu để thoát vương pháp thế gian, nhưng khi chết rồi thì một mảy may cũng không thoát khỏi đền tội. Trong sách nói: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (lưới trời tuy thưa mà khó lọt) là như vậy!
*Muốn sám hối những tội lỗi lỡ tạo như trên, vào ngày 27 tháng 3, phải thành tâm sám hối, tụng kinh, day mặt về hướng Bắc mà van vái cầu xin Ngài Thất Điện Thái Sơn Vương phù hộ độ trì cho bớt tội. Lại phải thệ nguyện không tái phạm, làm những điều lành đã nêu thì mới mong giảm được tội hình nơi ngục này.
8. Bát Điện Đô Thị Vương:
(Đô Thị Vương của Điện thứ tám)
*Ngục này ở dưới tầng đá ngầm đáy biển ở về hướng chính Tây, tên là “Địa ngục Đại Nhiệt Não”.
Có 16 tiểu địa ngục là:
1. Xa Băng Tiểu Địa Ngục. (xe cán)
2. Muộn Oa Tiểu Địa Ngục. (nồi buồn rầu)
3. Toái Quả Tiểu Địa Ngục. (nghiền xương)
4. Lạo Khổng Tiểu Địa Ngục. (các lổ ra nước)
5. Tiễn Chu Tiểu Địa Ngục. (kéo cắt thành miếng nhỏ)
6. Thường Thanh Tiểu Địa Ngục. (chuồng nhốt)
7. Đoạn  Chi Tiểu Địa Ngục. (chặt tay chân)
8. Tiễn Tạng Tiểu Địa Ngục. (xẻ các tạng phủ)
9. Chích Tuỷ Tiểu Địa Ngục. (đâm lấy tủy)
10. Bà Trường Tiểu Địa Ngục. (kéo ruột)
11. Phần Tiều Tiểu Địa Ngục. (coi lò)
12. Khai  Sinh Tiểu Địa Ngục. (bắt nhìn thẳng)
13. Quả Hung Tiểu Địa Ngục. (đục thủng ngực)
14. Phá Đỉnh  Khiếu Xỉ Tiểu Địa Ngục. (đục đỉnh đầu, bẻ răng)
15. Trảo Cát Tiểu Địa Ngục. (cắt rút móng)
16. Cương  Xoa Tiểu Địa Ngục. (cây chĩa bằng gang)
*Những người khi còn sống trên thế gian không hiếu thảo với cha mẹ, lúc cha mẹ còn sống không nuôi dưỡng, lúc cha mẹ chết không lo mai táng. Thường gây ra những lo âu phiền muộn đau khổ cho cha mẹ, ông bà, lâu ngày mà chẳng chịu hối cải. Táo Quândâng sớ tâu lên thiên đình, giảm trừ bớt y lộc tuổi thọ của người đó. Những người nghe lời xúi biểu của tà đạo, làm những điều ác đức xằng bậy, khi chết thì đứa con bất hiếu tới điện nào cũng bị hành phạt hoặc bị xay, cưa, đốt, giã, bị phanh rã tim gan, hoặc bị xe cán. Chứa xấu lừa của, trù ếm, chửi rủa, đồ dơ giặt đổ rạch sông, uế trược đến chỗ thờ, phơi áo quần dơ không nể thần thánh v.v… bị xô xuống ao huyết phẩn (Huyết Ô Trì)…. rồi thì đưa sang ngục thứ tám. Ngưu đầu mã diện và ngục tối lại đưa vào các tiểu ngục ở đây để trừng phạt tiếp, chịu đựng không biết bao nhiêu điều thống khổ, tiếng kêu khóc vang dậy gấp nhiều lần nên gọi là “Đại nhiệt não”. Thọ hình xong mới chuyển qua ngục thứ mười cho đi đầu thai làm súc sinh.
*Trường hợp người nào biết ăn năn cải hối, tin tưởng vào thần thánh, Ngọc Lịch, Minh Thánh …vào ngày mùng 01 tháng 4,, tụng kinh sám hối, thệ nguyện không tái phạm, được Ngài Đô Thị Vương phù hộ giúp đỡ. Lại đến trước bàn thờ Táo Quân để cầu xin sám hối, thề không tái phạm, nguyện làm việc lành …Táo Quân sẽ xác nhận bằng cách, người đó khi chết, trước khi bị quỷ sứ dẫn đi, Táo Quân sẽ viết vào trán một trong ba chữ là: “Tuân”, “Thuận” hay “Cải”. Như vậy, khi hồn người chết đến các điện từ thứ nhất đến thứ bảy, các vua Diêm La  sẽ giảm hình phạt một nửa hoặc hết.
*Trường hợp những người phát tâm mạnh mẽ, ra sức sao chép in ấn các kinh sách khuyến thiện với số lượng lớn, giúp được nhiều người hối cải làm lành, được công đức nhiều thì qua điện thứ chín tra xét không phạm thêm tội nào nữa, chuyển sang điện thứ mười cho đi đầu thai vào nơi phúc địa.
*Công đức ấn tống kinh sách rất lớn, người tu học cần nên lưu ý thực hành.
 9. Cửu Điện Bình Đẳng Vương:
(Bình Đẳng Vương của Điện thứ chín)
*Ngục này nằm dưới tầng đá ngầm đáy biển ở về hướng Tây Nam. Tên là “Đại Địa Ngục ATỳ” có lưới sắt bao quanh.
Có 16 tiểu địa ngục là:
1. Xao Cốt Chước Thân Tiểu Địa Ngục. (đập xương gõ vào thân)
2. Trừu Cân Lôi Cốt Tiểu Địa Ngục. (kéo gân giả xương)
3. Nha Thực Tâm Can Tiểu Địa Ngục. (quạ ăn tim, gan)
4. Cẩu Thực Trường Phế Tiểu Địa Ngục. (chó ăn ruột, phổi)
5. Thân Tiễn Nhiệt Du Tiểu Địa Ngục. (dìm thân chảo dầu sôi)
6. Não Cô Bạt Thiệt Bạt Xỉ Tiểu Địa Ngục. (đai siết quanh đầu, kéo lưỡi, kéo răng)
7. Thủ Não Vị Điền Tiểu Địa Ngục. (lấy óc trét vào mình con nhím)
8. Chưng Đầu Quát Não Tiểu Địa Ngục. (đốt đầu moi não)
9. Dương Súc Thành Diêm Tiểu Địa Ngục. (dê chà xát thành bột)
10. Mộc Giáp Đỉnh  Sai Tiểu Địa Ngục. (kẹp gỗ siết đầu)
11. Ma Tâm Tiểu Địa Ngục. (mài trái tim)
12. Phí Thang Lâm  Thân Tiểu Địa Ngục. (đổ nước sôi vào thân)
13. Huỳnh Phong Tiểu Địa Ngục. (ong vàng chít đốt)
14. Hạt Câu Tiểu Địa Ngục. (mọt đục thân thể)
15. Nghị Chú Ngao Đam Tiểu Địa Ngục. (rang nướng giòn)
16. Tử Xích Độc Xà Toản  Khổng Tiểu Địa Ngục. (rắn độc tím, đỏ chui vào các lổ trong người)
* Người khi còn sống làm những việc cùng hung cực ác, như tội thập ác, phải chịu sự trừng phạt theo phép nước như là xử chém, thắt cổ cho chết v.v… đã đành, khi chết lại còn phải trải qua sự hình phạt của nhiều địa ngục rồi cuối cùng là đến địa ngục ATỳ này.
Những tội nặng đó là: Phóng hỏa đốt nhà cửa người, nuôi những loại trùng rắn độc để bào chế thuốc độc hại người, cho thuốc phá thai, dùng tà pháp thu hút dương khí người nam, âm khí người nữ … để luyện tà thuật. Viết những văn chương thi phú khêu gợi dục tình (dâm thư – sách khiêu dâm), bào chế các loại thuốc, thức uống làm cho người mê ghiền, sa đọa, khích dâm…
Hình phạt tội nhân ở các tiểu địa ngục như sau:
*Thí dụ: Bớt xén tiền cất đền, miếu, tiền in kinh, sửa ngay ra vạy, phản thầy bất trung bị quăng lên núi đao. Ăn thịt trâu chó, sát mạng vật vô cớ, bị quạ mổ. Phân rẽ vợ chồng, thân tộc của người, viết sách văn thơ khiêu dâm bị chó móc ruột ăn tim. Hãm hiếp hoặc dụ dỗ trẻ thơ mà ăn của bị xay ra bột…Tội bất hiếu: cột  bằng đồng nung đỏ, bắt phạm nhân trói ôm vào cột, tay chân mình mẩy đều cháy thành than v.v…
*ATỳ địa ngục là gì ?
Chữ A có nghĩa là không, chữ Tỳ có nghĩa là Cứu hay xen kẽ.
Cũng có nghĩa là Vô Gián. Nghĩa là không có thời gian. Ở đây có 5 nghĩa chính:
Thứ nhất là xả thân sinh báo không có thời gian, nghĩa là sinh rồi chết, chết rồi sinh không biết bao nhiêu lần ở trong địa ngục.
Thứ hai là thọ khổ mãi mãi  không có niềm vui cũng không có thời gian nhất định.
Thứ ba là thời gian không hạn định, vì ở trong vô lượng kiếp số.
Thứ tư là mệnh sống (tuổi tác) không gián đoạn
Thứ năm là thân thể không gián đoạn. (không mất đi)
Địa ngục này ngang dọc 8 vạn do tuần, từ một người cho đến vô số người cũng đều chứa được đầy ắp trong đó.
Mỗi địa ngục còn có 4 địa ngục lớn nhỏ xung quanh được vây bọc. Khi chúng sinh ra khỏi một trong 8 địa ngục Vô Gián này rồi, thấy những địa ngục bên cạnh như nước lạnh mát mẻ, khởi tâm thích mới chạy vào đó, không ngờ đó là địa ngục thiêu đốt, địa ngục rang nướng, cưa xẻ….tội nhân cứ chết đi sống lại, rồi bị hành hình thọ quả. Nhiều khi muốn chết mà cũng không thể chết được. Vì quả báo thọ chưa xong.
*Những kẻ phạm tội như dưới đây vào Vô gián Địa Ngục: Kẻ bất hiếu với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ. Kẻ đâm chém thần đổ máu, hủy báng thần thánh, chẳng kính chân kinh, phá hoại sự hòa hợp chân tu. (gọi là tội ngũ nghịch).
*Kế đến, nhẹ hơn một chút là những kẻ xâm lấn tổn hại đền miếu, làm ố uế chân tu, hay ở trong nhà chùa mà dâm dục hoặc giết, hại nhân vật. Kẻ giả bộ thầy tu, chẳng có tâm thầy tu, dùng phá đồ vật của cải nhà đền, lừa gạt người tại gia, làm trái giới luật, tạo ra rất nhiều tội ác. Kẻ ăn trộm ăn cắp của cải, đồ đạc, lúa gạo, thức ăn uống, quần áo của nhà đền, người ta không cho mà cũng lấy v.v… không vào ngục vô gián nhưng phải chịu sự hình phạt ở hai ngục: nóng và lạnh, sau khi thân bị lửa thiêu còn bị đoạ thân qua nơi cực lạnh, gió lạnh thổi như dao cắt toàn thân chịu thống khổ không thể tả.
*Muốn giảm phần nào hình phạt sau này, những người trót lỡ phạm tội nặng (trừ tội ngũ nghịch đã kể trên) phải hết sức thành tâm ăn năn hối cải, tụng kinh sám hối, thu hồi và hủy bỏ tất cả những sản phẩm, phương tiện sai trái đã làm, ấn tống thật nhiều kinh điển khuyến thiện, giúp người cải dữ làm lành, cứu mệnh nhiều người, giúp đỡ cơm ăn, áo mặc, thuốc men trị bệnh cho nhiều người nghèo đói, khổ sở  v.v…rồi vào ngày mùng 8 tháng 4, vái nguyện với Ngài Bình Đẳng Vương ở Điện thứ chín xin sám hối tội lỗi đã tạo, nhiều năm làm như vậy, sẽ được giảm bớt hình phạt ở các tiểu địa ngục và miễn qua địa ngục lạnh.
Những người không rơi vào ngục vô gián thì sau khi chịu hình phạt lâu dài ở ngục thứ chín này, chuyển qua ngục thứ mười cho đi đầu thai làm kiếp thú, mãn trăm kiếp thú rồi mới được làm người. Nhưng làm người cô độc, bị bỏ rơi, nghèo khổ, đói khát triền miên, sống tạm bợ lây lất cho đến mãn kiếp (nghĩa là chỉ đỡ hơn địa ngục một chút thôi, gọi là dư báo). Nhiều kiếp như thế, nếu biết ăn năn sám hối tu hành thì mới được chuyển dần đến chỗ có phúc đức.
10. Thập Điện Chuyển Luân Vương:
(Chuyển Luân Vương của Điện Thứ mười)
*Điện thứ mười ở dưới tầng đá ngầm của cõi U Minh, về phía chính Đông đối với thế giới ngũ trược (trọc) này.
*Có tất cả là sáu loại cầu Nại Hà: Cầu làm bằng vàng, bạc, ngọc, đá, gạch, cây.
Điện thứ mười là nơi nhận những quỷ hồn của các điện khác chuyển đến. Sau khi thẩm định phúc phần của mỗi hồn, sẽ cho đi đầu thai vào các nơi tương xứng, theo các tình trạng: nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, khôn hay ngu, thọ hay yểu  v.v…Mỗi tháng, các điện sẽ chuyển giao một lần các quỷ hồn đến đây. Việc thọ sinh (đi đầu thai) này rất chi tiết, tỉ mỉ, phức tạp như là: đường nào trong bốn đường thai, noãn, thấp, hóa, như loài vật thì có loài không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân. Có loài thì tự chết, có loài thì bị giết chết…Việc đúc kết rất cẩn thận vì tầm quan trọng lớn lao của nó. Kết quả sẽ ghi kỹ lưỡng cho mỗi quỷ hồn để đưa đến Phong Đô đầu thai.
Thí dụ như:
*Người không kính giấy chữ (sách kinh thánh hiền), rủ nhau ăn thịt trâu chó, phạt làm ăn mày. Không kính người lớn, chẳng vâng lời phải, thầy dạy học trò không tốt bị người vô cớ nói xấu, khinh khi. Người hay nói ra nói vào, xúi người kiện cáo, trước đã bị hình phạt xô xuống cầu Nại Hà cho rắn, cua ăn thịt, nay đầu thai thành người bị vu cáo lĩnh án tù đày…
Những nhân sĩ khi sống mà biết làm lành, tụng kinh kính thần, trì chú v.v… khi chết, dược miễn giảm rất nhiều hình phạt ở các ngục.
Những quỷ hồn sau khi thọ hình xong ở các Điện, Điện thứ mười tổng kết xong, lập danh sách chi tiết rồi chuyển họ đến “Dậu khu vong đài” (ăn cháo lú quên quá khứ) của Mạnh Bà Tôn Thần. Kế đó mới cho đi đầu thai tùy theo phúc nghiệp cân xứng của mỗi người.
Trường hợp có những hồn ghi nhớ mãi những câu chân ngôn thần chú của Tam Giáo, nhưng không đủ phúc báu vãng sinh, mà không thể quên được quá khứ thì cho đi đầu thai tạm thời, chỉ sống một thời gian ngắn, hoặc một hai ngày, hoặc vài tháng vài năm …phải chết lần nữa, trở lại “vong đài” uống thuốc mê cho thật quên hết chân ngôn rồi mới đi đầu thai chính thức.
Cũng có những trường hợp những người mang mãi mối thù hận quá sâu sắc, không chịu đi đầu thai, chấp nhận kiếp ngạo quỷ để theo đòi báo ứng cho xong, mới chịu tái sinh.
Những trường hợp như vậy cũng có rất nhiều vì khi tại thế, đã gây tạo cho nhau quá nhiều hệ lụy, nào là phụ tình, nào là vong ân bạc nghĩa, nào là bị lường gạt đến nỗi táng gia bại sản, nào là thù hận ganh ghét chức vụ mà hại nhau, nào là bị áp bức quá đáng… họ đã phát thệ “nhớ mãi không quên” nên phải đi vào con đường quanh co đau khổ này. Cho nên biết, “oán thù nên cởi không nên buộc, chẳng những có lợi ngay trong đời này, mà còn đỡ khổ cho lúc tái sinh đời sau”.
*Khi còn sống, phải nên tự mình làm lành rồi nên khuyên bảo thân nhân, bè bạn, người xung quanh chung sức làm lành. Giúp đỡ, tương trợ nhau, giúp đỡ cơm áo, gạo tiền, thuốc men cho người nghèo khổ. Sao chép, ấn tống kinh sách khuyến thiện giúp người giác ngộ tránh dữ làm lành. Bản thân phải lo tu học cho tốt, tụng kinh, kính thần… làm việc thiện không hề lười mỏi. Vào ngày 17 tháng 4, vái nguyện Ngài Thập điện Chuyển Luân Vương gia trì thêm phúc phần ở kiếp sau.
11. Đệ Thập Điện Chuyển Kiếp Sở:
(Nơi cho người đi đầu thai, ở Điện thứ mười)
* Sở chuyển kiếp này trên dưới xung quanh đều có hàng rào bằng sắt, bên trong chia ra làm 81 chỗ. Mỗi chỗ đều có đình đài khang trang, có quan lại ngồi bàn làm việc. Bên ngoài hàng rào, có những con đường nhỏ “ruột dê” (quanh co), có mười vạn tám ngàn (một trăm lẻ tám ngàn) lối đi, uốn khúc quanh co  dẫn đến “tứ đại bộ châu”.
*Bên trong sở, tối om như thùng sơn, chỉ thấy có một con đường để cho người đi đầu thai đi ra lối đó thôi. Bên ngoài nhìn vào giống như thủy tinh, chằng chịt nhiều đường ngang lối dọc, có các quan lại làm việc rất bận rộn, nhưng không bao giờ có sự nhầm lẫn. Có những trường hợp xét thêm để cho thăng hay giáng. Như người khi còn sống, có lòng hiếu thảo với cha mẹ hoặc những người không sát sinh mà còn phóng sinh…làm được nhiều điều thiện, sau năm lần thẩm tra, được các “thiện quan” tâu xin cho tăng thêm hưởng phúc. Trái lại, những người sau khi thẩm tra lại, phát hiện ra còn sót tội, hoặc hình phạt chưa đủ, thì sẽ tâu xin giáng bớt phúc, như  những người bất hiếu, sát sinh nhiều…
*Những người tội nặng, thọ vào thân súc sinh, bị thay đầu đổi mặt, trở thành một trong bốn loài: cầm (chim), thú (bốn chân), ngư (cá), trùng (côn trùng), là được cho đi vào những đường nhỏ quanh co. Phàm đã thọ thân súc, thì phải trải qua rất nhiều kiếp, thai sinh thì có các thú, noãn sinh thì có sấu, rùa, rắn, chim …, thấp sinh thì có các loài trùng bọ…Qua nhiều kiếp như thế, mới được lên làm người. Còn những quỷ hồn chấp nhận làm ngạo quỷ, vì không tin vào luân hồi, nhân quả, mang nặng ghi sâu những thù hận oán hờn, sống vất va vất vưởng, không có khái niệm về thời gian. Nếu không có những vị chân nhân có lòng Bồ Tát từ bi lập trai đàn chẩn tế và cầu siêu cho, thì vẫn mãi mãi đói khát và không có cơ hội để đầu thai kiếp khác. Ngoài ra, nếu lỡ bị đọa vào ATỳ địa ngục thì mãi mãi không được trở lại làm người. Như vậy, kinh nói: “Thân người khó được”.
12. Đệ Thập Điện Mạnh Bà Thần:
(Thần Mạnh Bà ở Điện thứ mười)
Vị thần tên Mạnh Bà này, sinh vào đời Tiền Hán, lúc nhỏ học Nho, sau chuyển qua học Thần. Vị này có đặc điểm là “quá khứ thì không nhớ đến, tương lai thì không nghĩ tới”, suốt đời chỉ biết khuyên người, làm lành. Đến năm 81 tuổi mà “hạc  phát đồng nhan” (tóc già như chim hạc mà mặt vẫn như người trẻ), vẫn còn là “xử nữ” (gái trinh).
Người đời chỉ biết bà họ Mạnh, nên gọi bà là “bà vú Mạnh Bà”. Bà vào núi tu Tiên, tồn tại mãi đến đời Hậu Hán.
Trước đây, vì con người sinh ra thì vẫn còn nhớ đến kiếp trước, nên nhớ và tìm đến những quyến thuộc xưa, trí nhớ vẫn tốt nên kể lại chuyện đầu thai, làm tiết lộ thiên cơ (máy trời). Do đó, Thượng Đế mới sắc phong cho họ Mạnh làm người cai quản “Dậu khu vong đài” (đài làm quên) có các quỷ sứ giúp việc. Khi Điện thứ mười đã có quyết định là hồn sinh vào chỗ nào, địa vị ra sao…thì trước khi đi đầu thai, phải đến chỗ “Đài khu vong” này. Ở đây, dùng các dược vật trên thế gian, bào chế thành một loại “như rượu mà không phải rượu”, chia ra làm năm vị loại là : Ngọt, đắng, cay, chua, mặn.
Các hồn được chuyển thế, phải uống loại nước này, quên đi tất cả người và sự việc, cảnh giới của đời trước. Theo thứ tự trên mà quên đi nhiều hay ít, lâu hay mau, sâu hay cạn… tùy theo công phu tu hành và phúc đức của kiếp trước. Vì thế, người sinh ra, có kẻ khôn người ngu, kẻ học một biết mười, kẻ học hoài chẳng nhớ. Cũng có những người “không học mà biết” là do uống ít “thuốc quên” này vậy.
Đài khu vong ở Điện thứ mười này, nằm phía trước điện và bên ngoài của sáu chiếc cầu Nại hà. Đài to lớn khắp cả vùng đất. Số phòng có đến một trăm lẻ tám gian, hướng đông có con đường đâm thẳng vào, bề ngang hẹp chừng một thước bốn tấc (để hồn chỉ đi hàng một). Các hồn nam nữ được đưa vào từng phòng, mỗi phòng đều có bày sẵn thức uống nói trên, do nghiệp lực mà hồn cảm thấy khát nước nhiều ít mà uống nhiều hay ít. Còn hồn nào ương ngạnh không chịu uống, thì dưới chân xuất hiện một cái vòng khóa chân lại, trên cổ có một ống bằng đồng chặn đè vảo cổ, phải hả miệng ra. Chịu không nổi đau đớn nên phải uống thật nhiều mới tha.
Sau khi uống xong, có một quỷ sứ xuất hiện, dắt vào con đường dẫn đến chiếc cầu, bên dưới là một khe nước đỏ như máu đang chảy xiết. Đứng trên cầu, nhìn thấy phía đối diện có một hòn đá đỏ lớn, có bốn hàng chữ, mỗi chữ lớn bằng cái đấu (lít), viết như sau:
“Vi nhân dung dị, tố nhân nan,
Tái yếu vi nhân, khủng cánh nan.
Dục sinh phúc địa, vô nạn xứ,
Khẩu dữ tâm đồng, khước bất nan”
*Dịch:
“Là người thì dễ, làm người khó,
Muốn lại làm người, càng khó hơn.
Muốn sinh đất phúc, không tai nạn
Thì miệng giống tâm, chẳng khó gì”
*Lúc hồn đang đọc mấy hàng chữ này thì bên phía cầu bên kia, xuất hiện hai con quỷ lớn từ dưới rẽ nước bay lên. Một con thì đầu đội mũ “ô sa”, mình mặc áo gấm, tay cầm giấy bút, vai mang đao bén, lưng có đeo hình cụ, trợn tròng cặp mắt, cười to ha hả…Quỷ này tên là “Hoạt Vô Thường” (sinh không định trước). Một con nữa thì mặt mày đầy máu, mình mặc áo trắng, tay cầm bàn tính, vai vác bao gạo, trên ngực có dán tờ giấy, hai cặp chân mày nhăn lại, than dài thở ngắn. Quỷ này tên là “Tử Hữu Phận” (chết có phần sẵn). Hai con quỷ này nắm chân hồn lôi kéo xuống dòng nước đỏ, tùy theo phúc nghiệp mà đè xuống cạn sâu. Cạn thì được hưởng phúc, sâu thì phải chịu đọa đày. Hồn lúc này ngơ ngơ ngác ngác, chẳng còn biết gì nữa, cứ lo ngóc đầu lên, thì chốc lát đã chui ra khỏi  “tử hà xa” (bào thai, tử cung) của bà mẹ, khóc lên ba tiếng “oa oa”. Kế rồi lớn lên, ham ăn ham uống, mê mải theo đời, mê muội “Như Lai Thần Tính”, quên hết ơn Trời, Thần, Thánh, chân nhân, chẳng nhớ làm thiện mà cứ theo đường ác, đến mãn kiếp lại trở về với hồn ma bóng quỷ như lần trước. Thật là tội nghiệp thay cho thân phận người không biết tu hành để giải thoát!
Các việc kể trên là do một vị thư lại, làm việc ở “Khu vong đài” theo lệnh Ngọc Đế ghi chép lại trong Ngọc Lịch,để phổ biến khắp cả cho thế nhân biết mà lo tu hành, cầu đạo giải thoát.
13. Uổng Tử Thành:
*Đại Đế Phong Đô nói: “Uổng Tử Thành nằm về bên phải của Điện thứ mười. Thế gian hay lầm nghĩ rằng, những người bị tai nạn chết bất ngờ đều phải vào trong thành này. Nếu điều đó là thật, thì những người chết oan chết ức đều là tốt hết cả sao? Cho đến vẫn còn thấy rất nhiều oan hồn chưa tiêu hết phẩn hận, những kẻ tự tử, những kẻ bị hại… vẫn còn đang chịu sự hình phạt trong các điạ ngục, chưa biết ngày nào được đi đầu thai.
Vào trong Thành Uổng Tử này, chỉ có những người “Trung hiếu tiết nghĩa, xả thân vì nước (tận trung báo quốc), hoặc tử tiết thành thần. Vì chết bất ngờ nên chưa thẩm định kịp, phải  tạm thời ở đây, chờ ngày để đầu thai nơi phúc địa hoặc được phong thần. Như vậy, đây là nơi dành riêng cho những người tốt ở tạm chờ xét. Đó mới đúng là nghĩa của Uổng Tử Vậy.
14. Huyết Ô Trì:
*Huyết Ô Trì, tức là cái ao bị vẫn đục do máu gây nên.
Ao này nằm phía sau, bên trái của Điện thứ mười. Người thế gian hiểu sai về ý nghĩa của nơi đây là do từ một vị Đạo Cô đã giảng sai lúc xưa. Vị ấy nói những người đàn bà trên thế gian, khi sinh nở máu huyết làm ô uế đất cát nên phải mang tội, lúc chết bị xuống đây, điều đó là không đúng.
Chỉ là trường hợp những người nữ khi sinh đẻ, bị trục trặc lâm nạn mà chết, vua Diêm Vương không xét tội của người chết đang ô uế, nên mới cho đến đây. Chờ cho đủ mười ngày, người ấy đã tỉnh táo, tắm rửa sạch sẽ thay đổi quần áo rồi mới cho lên điện để xét xử. Còn về việc làm ra sự ô uế, nếu có, thì người sản phụ chỉ chịu bảy phần, người gia trưởng của nhà đó phải chịu ba phần trách nhiệm, chứ không thể đổ hết tội lỗi cho sản phụ.
Vào trong ao này, đúng nghĩa là những người bất luận là nam hay nữ, khi sống đã phạm tội giao hợp với nhau mà không kiêng chỗ thờ phụng trời đất, thánh thần. Cũng không chịu kiêng cử vào những ngày Thánh Đản, giờ kiêng. Thí dụ như ngày 14, 15 tháng năm, ngày mùng 3 và 13 tháng tám, ngày mùng 10 tháng mười. Năm ngày ấy gọi là “Chưởng tử giới nhật” (ngày kiêng của việc tạo ra con). Phạm vào những ngày này, có thể bị thần trừng phạt mắc ác bệnh mà chết. Sau khi đã thọ xong hình phạt ở các ngục vì tội khác rồi, mới đưa đến đây để bắt họ trầm mình dưới ao này, chẳng cho lên bờ.
*Lại có những kẻ hoặc nam hoặc nữ có tính hiếu sát bừa bãi, lại bất cẩn để cho máu vương vãi, dính vào bếp táo, nơi điện thờ thần thánh, hoặc sách vở thánh hiền, kinh điển, hoặc chén đĩa ở bàn thờ…thì đều phạm tội.
Những người này phải chịu sự hình phạt ở các điện về tội khác xong rồi mới đến đây để chịu phạt trầm mình dưới ao không cho ngóc đầu lên. Muốn hóa giải tội này, người thân ở dương thế phải làm thiện, thệ nguyện giới sát và làm thiện, phóng sinh. Làm đủ phúc rồi còn tụng thêm “Huyết Ô Kinh Sám” (Kinh sám hối huyết ô) thì phạm nhân mới được giải tội để đi đầu thai.
*Lại có những kẻ nam nữ ở thế gian, khi thấy có người bị nạn mình có thể cứu được mà lại không chịu cứu, hoặc thọ ơn người mà đã không chịu đền đáp lại còn tính kế mưu hại người ơn, cũng phải chịu tội ở ao này. Trường hợp những người nói trên sau đó phát tâm tu hành tích lũy công đức rất lớn, thì khi chết có thể được miễn hình phạt huyết ô, nhưng vẫn phải chịu quả báo thành ra các loài quỷ như: ly, mỵ, vọng, lượng, sơn yêu, mộc khách, thủy quái, cương thi (thây ma cứng biết đi), hồn vất vưởng đây kia, hoặc nhẹ thì cũng gá tính linh vào những loài chồn, cáo, gấu, beo, cá sấu, rắn… hàng trăm năm, nếu biết ăn năn tu tỉnh mới được đầu thai, còn nếu không chuyển hóa được trong tâm thì vẫn mãi mãi trụ ở tình trạng như thế.
*Một điểm nữa là, ở thế gian cũng hiểu sai về việc tin có “Thần giữ của”. Thục ra, đây chẳng phải là thần thánh gì cả, mà chỉ là hồn ma của người lúc sống có chôn cất số của cải tài sản nào đó, khi chết vẫn quyến luyến bám theo tài sản để giữ của. Nếu có ai đến đào lấy, họ sẽ hiện thành ma quỷ hù nhát người đào, khiến cho người ấy có thể vì quá sợ hãi, sinh bệnh mà chết. Những loại âm hồn kiểu này, chẳng kể là dân giả hay nho sĩ quan lại gì cả, nếu có tính tiếc nuối của cải tài sản đều trở thành “ma giữ của”. Muốn hóa giải nghiệp này, chỉ có cách tốt nhât là mời thỉnh những vị đạo cao đức trọng, những vị chân tu có đạo lực, đến tổ chức trai đàn cầu siêu, thuyết pháp cho họ nghe hiểu giác ngộ lẽ vô thường của thế gian. Chính cái thân của mình còn không giữ được, huống nữa là tài sản của cải là những thứ từ ngoài vào, làm sao có thể giữ cho được. Nhờ vậy, họ mới tỉnh ngộ mà phát tâm tu hành, chuyển hóa đầu thai kiếp khác.
*Nếu không có được những vị đạo cao đức dày khuyến hóa, thì người thân có thể tổ chức những buổi cầu siêu, những dịp chẩn tế tập thể thật long trọng, cứu giúp được nhiều người. Sau đó, thành tâm hồi hướng tất cả công đức làm ra “cho tất cả sinh linh được sớm thành Thần đạo”. Được vậy mới khả dĩ hỗ trợ người thân mình thoát khỏi nạn “giữ của” này.
*Trường hợp những người vì mệnh lệnh nhà vua mà phải lên đường chinh chiến, bất đắc dĩ phải chấp hành, nhưng trong lòng không muốn. Trong lúc làm lính bất đắc dĩ đó, vẫn luôn thương yêu giúp đỡ bạn bè đồng đội, tránh bắn giết bừa bãi dân chúng vô tội …nếu chẳng may bị chết, thì được miễn những hình phạt của các ngục. Đến điện thứ nhất xem xét nghiệp lực rồi chuyển thẳng đế điện thứ mười cho đi đầu thai vào nơi phúc địa. Còn nếu, lỡ vào quân ngũ mà lại sinh tâm hiếu sát, bắn giết bừa bãi…thì khi chết sẽ gia thêm hình phạt và thời gian gấp đôi.
15. Hắc Bạch Vô Thường:
*Câu “sinh không biết kỳ, tử lại có hạn” nói lên quan điểm  nhận thức của người đời đối với việc sống chết. Còn đối với hai vị “Hắc Bạch Vô Thường” thì ai ai cũng sợ hãi, cho là hai con quỷ hại người. Ấn tượng của thế gian là, Hắc vô thường là mặc áo đen, Bạch vô thường là mặc áo trắng. Một hôm nào lỡ gặp hai vị này thì có nghĩa là số mệnh đình chỉ.
Nhưng có số sách vở nói rằng, đừng nên sợ hãi khi gặp hai vị Hắc Bạch này, lúc đó chỉ cần bình tĩnh, thành tâm cầu bái và xin hai vị cho mình “bất cứ món đồ gì”, nhất định về sau sẽ “đại phú quí” ! Cho nên,  trên bàn thờ của một số đoàn hát kịch ở một vài địa phương có thờ hai vị Hắc Bạch Vô Thường  chung với Thần Tài, mà chiếc mũ trên đầu hai vị có ghi câu “Nhất kiến sinh tài” (một lần thấy ta ắt có tiền).
Thành Hoàng Thông Thiên Địa Khoa Nghi
Giới Thiệu
Hai chữ Thành Hoàng nghĩa là Thần bảo vệ thành xã hay là Thần hộ vệ thành. Nhiệm vụ của Thành Hoàng là bảo hộ cư dân, làng, xã, khu đô thị mới thành lập khi bị thiên tai hay loạn lạc, là Thủ Hộ Thần của thành thị. Về sau , trải qua nhiều thời đại, Thành Hoàng được thêm những nhiệm vụ khác như:
Cầu mưa, cầu tạnh ráo, ban phúc, giải trừ tai nạn v.v… hình thành ông quan cai quản địa phương, thưởng thiện phạt ác, là ông quan do Minh Phủ phái đến dương gian để cai quản dân tình.
*Với nhân gian, Thành Hoàng Gia là vị Pháp Quan của cõi âm, có thể bổ sung cho những thiếu sót của Pháp Quan dương thế. Do đó mà được bá tính sùng kính thờ phụng.  Điều sùng bái trước tiên là tất cả những gì liên quan đến sinh hoạt của nhân gian địa phương đều có thần chứng giám, tỏ biết hết.
Thành Hoàng cũng có khả năng bảo hộ tính mệnh và tài sản của dân làng. Và nhân gian thường gọi.Thành Hoàng chữa bệnh. Vì những người bệnh lâu ngày thương ra làm lễ cầu nhanh khỏi bệnh,những ai bị mất của có thể ra kêu nhờ Thành Hoàng trợ giúp.vì mỗi ngày có 18 vị thần ghi chép công tội họa phúc tại miếu.
Những người bị oan đêm có thể xin mở cửa miếu nhờ Thành Hoàng phúc dạ thẩm. Những người chết đều phải đến xin giấy thông hành mới có thể xuống địa phủ.
Những người chết nơi đất khách quê người nếu không được Thành Hoàng cấp giấy thì không trở về được quê hương mà mãi mãi làm quỷ phiêu lạc nơi xứ người không có cơ hội đi đầu thai.
-Vị Thành Hoàng cai quản cả nước thì phong làm
Thiên Hạ Đô Thành Hoàng,có chức Vương,
-Vị Thành Hoàng cai quản một tỉnh thì phong làm
Đô Thành Hoàng, cũng ở chức Vương
-Vị Thành Hoàng cai quản một Phủ thì phong làm
Phủ Thành Hoàng, có chức Công,
-Vị Thành Hoàng cai quản một châu thì phong làm
Châu Thành Hoàng, có chức Hầu, xưng là Linh Ứng Hầu hoặc Tuy Tĩnh Công,
-Vị Thành Hoàng cai quản một huyện thì phong làm Huyện Thành Hoàng, có chức Bá, xưng là Hiển Hữu Bá.
*Thành Hoàng Gia đã là một vị quan địa phương thuộc U Minh Giới, dĩ nhiên phải có nhiều cơ quan và thuộc hạ giúp việc, kể cả tư pháp và cảnh sát nữa. Theo truyền thống, các bộ ty của Thành Hoàng gồm:
-Diên Thọ Ty (coi về tuổi thọ)
-Tốc Báo Ty (báo cáo nhanh)
-Củ Sát Ty (quan sát theo dõi)
-Tưởng Thiện Ty (ban thưởng người, việc lành)
-Phạt Ác Ty (trừng phạt kẻ, việc ác)
-Tăng Lộc Ty (ban cho phúc lộc)
Thông thường xưng là Lục Quan hoặc Lục Thần Gia.
Chức năng và danh xưng của các Ty này tương đồng với thế gian.
Ngoài các Ty, còn có hai Phán Quan Văn và Phán Quan Võ, cùng với Ông Ngưu, Ông Mã, ÔngGông Cùm, Ông Xiềng Xích là bốn vị Gia Gia.
Bên cạnh còn có hai vị Tướng Quân có vai trò quan trọng tên là Phạm Vô Cứu(có tội miễn xét xử) và
Tạ Tất An (cúng tạ được bình an) mà dân gian tôn xưng là Tạ thất gia và Phạm bát gia, hai vị nàylàm trợ lý cho Thành Hoàng trong việc trừng gian trừ ác..
*Thành Hoàng Gia là vị quan cõi âm của địa phương, theo truyền thuyết thì vào các ngày Thanh Minh,
Trung Nguyên (15/7),
Hạ Nguyên (15/10),
Thành Hoàng Gia sẽ đi tuần tra, nên dân gian tổ chức các buổi lễ Nghênh Thần hay Xuất Hội để cúng bái Thành Hoàng, sẽ được Ngài ban phúc lộc và bảo hộ bình an.
*Thất Gia Bát Gia
Các Miếu thờ Thành Hoàng không thể thiếu hai vị Thất Gia, Bát Gia.
Bởi vì, mỗi khi Thành Hoàng xuất hội, công việc. Thất Gia, Bát Gia còn gọi là
Trường Gia,
Đoản Gia (Cao Gia, Nụy Gia),
cũng gọi là hai quỷ
Hắc Bạch Vô Thường .
Tập quán dân gian thì tôn xưng là
Tạ Tướng Quân
Phạm Tướng Quân
có nhiệm vụ bắt giải các phạm nhân đưa đến trước mặt Thành Hoàng để Ngài phán xét.
*Thất Gia họ Tạ tên Tất An, có thân cao, gò má đen, dân gian gọi là
Hắc Vô Thường.
Bát Gia họ Phạm tên Vô Cứu,
vì thân hình lùn thấp, gò má trắng nên dân gian gọi là
Bạch Vô Thường.
*Có người lại giải thích, tạ tất an là bị bệnh cúng tạ Thành Hoàng thì được lành, còn phạm vô cứu là đã gây tội thì không người nào cứu được
*Âm Dương Ty Công
Âm Dương Ty Công , là bộ hạ của THÀNH HOÀNG gia, thân thể tự chia ra hai phần đen và trắng, hình dạng khiến trông thấy phải khiếp sợ, trừ điều ác giúp điều lành.
Âm Dương Ty Công coi sóc về thưởng công hay trị tội của dân gian, cùng quản lý các hồn ma quỷ trong địa phương mình.
*Tướng lạ của Ngài là gò má bên trắng bên đen, thần khí mạnh mẽ khiến người nhìn thấy không lạnh mà run, lòng sinh e dè sợ sệt. Sự hiện diện của Ngài góp phần duy xã đạo đức tốt đẹp và hạn chế bớt những hành động sai phạm của dân gian.
Đa số thì Âm Dương Ty Công được thờ chung trong Miếu Thành Hoàng . Một số nơi có xây miếu riêng để thờ.
*Văn Phán Quan Vũ Phán Quan
Văn Phán Quan phụ trách đúc kết hành động , việc làm thiện ác của nhân dân và tuổi thọ của mỗi người, sau đó, ghi chép thành sổ sách, gọi là Phán Quyết Thư.Vũ Phán Quan căn cứ vào phán quyết của Văn Phán Quan để thực hiện việc trị tội kẻ ác.Tướng dạng của Văn Phán Quan thì nho nhã, tay cầm bút và sổ sách định đoạt mệnh vận của hồn ma quỷ. Vũ Phán Quan tay cầm lang nha bổng (gậy răng sói) , mặt mày dữ dằn thể hiện năng lực phạt ác trong dân gian.