KINH PHẬT THỪA TRANG NGHIÊM
BẢO VƯƠNG KINH
ÔM MA NI BÁT MÊ HÙM
Lời giới thiệu của kinh:
Bộ kinh đại thừa bảo trang nghiêm này được lưu truyền của ở các quốc gia phần
đông theo phật giáo như Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, và Việt Nam. Kinh này
chủ yếu nói về hạnh nguyện của đức quán thế âm bồ tát và thần chú lục tự đại
minh không thể nghỉ bàn được. Kính mong các đạo hữu đọc qua. Con nay xin tạ ơn
thầy Quảng An đã dịch bộ kinh này để làm lợi lạc cho chúng sanh.
Nay xin trích một phần của kinh này cho để cho chúng ta biết không thể nghỉ bàn
của chú lục tự đại minh:
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Nay sáu chữ
Ðại Minh Ðà Ra Ni này làm thế nào mà được?
Phật dạy: Thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này rất khó gặp được, cho đến
Như Lai mà cũng không biết chỗ sở đắc ấy thì nhơn vị Bồ Tát làm thế nào mà hay
biết được! Ngài Trừ Cái Chướng bạch đức Thế Tôn rằng: Ðà Ra Ni như vậy, nay
Phật Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vì sao mà không biết ư?
Phật dạy: Thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni đó là bổn tâm vi diệu của
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Nếu biết vi diệu bổn tâm ấy tức biết giải thoát.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Trong các
hữu tình có ai biết được sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni đó chăng?
Phật dạy: Không có ai biết. Thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này vô
lượng tương ưng Như Lai mà còn khó biết huống gì là Bồ Tát làm thế nào mà biết
được chổ bổn tâm vi diệu của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát? Tôi đi trải qua các
quốc độ khác cũng không biết sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này. Nếu có người thường
thọ trì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni thì khi trì tụng có chín mươi chín Căng già
sa hà sa số chư Như Lai nhóm hội, có vô số Bồ Tát nhiều như vi trần nhóm hội
cùng các Thánh chúng Thiên tử ở ba mươi hai cõi trời cũng đều nhóm hội. Lại có
bốn Ðại Thiên Vương ở bốn phương làm hộ vệ, có Ta Nga La Long vương, Vô Nhiệt
Não Long vương, Ðắc Xoa Ca Long vương, Phạ Tô Chỉ Long vương. Như vậy có vô số
trăm ngàn vạn Câu chi na khố na Long vương đến hộ vệ người thọ trì ấy. Lại ở
khắp trong cõi đất hết thảy các Dược Xoa Hư Không thần cũng đến hộ vệ. Thiện
nam tử! Trong lỗ chân lông Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát có trăm ức Như Lai an
trụ và khen ngợi người trì tụng ấy: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi
hãy được như ý ma ni bảo, bảy đời dòng họ của người đều sẽ đều được giải thoát.
Thiện nam tử! Người trì minh kia (kẻ trì chú) ở trong bụng có các trùng, các
trùng ấy sẽ được Bất thối chuyển địa vị Bồ Tát. Nếu lại có người lấy sáu chữ
Ðại Minh Ðà Ra Ni này mà đeo giữ nơi thân, trên đảnh. Thiện nam tử! Nếu thấy
được người đeo giữ ấy, thời cũng như thấy thân Kim Cang, như thấy tháp Xá Lợi,
như thấy đức Như Lai, như thấy một trăm ức trí tuệ. Nếu có kẻ trai lành gái tín
nào hay y pháp niệm sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này, thì người đó sẽ được vô tận
biện tài được trí tụ thanh tịnh, được đại từ bi, như vậy người đó ngày ngày
được viên mãn công đức sáu chữ Ba la mật đa. Người đó được trời Chuyển luân
Thánh vương quán đảnh, người ấy lời nói hơi trong miệng phát ra, chạm đến thân
người nào, người chạm được bất thoái chuyển Bồ Tát, mau chóng chứng đắc Vô
thượng bồ đề Chánh đẳng chánh giác. Nếu người đeo giữ và thọ trì lấy tay chạm
đến người khác, người được rờ chạm ấy mau được Bồ Tát vị. Nếu kẻ nam người nữ,
con trai con gái, cho đến dị loại hữu tình khác, thâý được người đeo và thọ trì
ấy, tất cả đều mau được Bồ Tát vị. người như thế đó, vĩnh viễn không còn chịu
khổ sanh, già, bịnh, chết, khổ thương xa lìa, mà được sự niệm tụng tương ưng
không thể nghĩ bàn. Nay như thật mà nói lên sáu chữ đại minh Ðà Ra Ni vậy.
KINH PHẬT
THỪA TRANG NGHIÊM
BẢO VƯƠNG KINH
QUYỂN 1
NAM MÔ PHẬT THỪA TRANG
NGHIÊM
BẢO VƯƠNG KINH
HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT
Phật
nói Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.
Như thật tôi nghe, một thời đức Thế Tôn, ở tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Ðà, vườn
Cấp Cô Ðộc. Cùng với chúng đại Tỳ Kheo gồm có một ngàn hai trăm năm mươi người
và các chúng đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Danh hiệu các Ngài ấy là: Kim Cang Thủ đại
Bồ Tát, Trí Kiến đại Bồ Tát, Kim Cang Quân đại Bồ Tát, Bí Mật Tạng đại Bồ Tát,
Hư Không Tạng đại Bồ Tát, Nhựt Tạng đại Bồ Tát, Vô Ðộng đại Bồ Tát, Bảo Thủ đại
Bồ Tát, Phổ Hiền đại Bồ Tát, Chứng Chơn Thường đại Bồ Tát, Trừ Cái Chướng đại
Bồ Tát, Ðại Cần Dũng đại Bồ Tát, Dược Vương đại Bồ Tát, Quán Tự Tại đại Bồ Tát,
Chấp Kim Cang đại Bồ Tát, Hải Tuệ đại Bồ Tát, Trì Pháp đại Bồ Tát, hết thảy gồm
có tám mươi trăm ức Bồ Tát đều đến nhóm hội.
Lúc ấy có các chúng Thiên Tử của ba mươi hai cõi Trời đều đến nhóm hội, trời
Ðại Tự Tại Thiên và trời Na La Diên làm thượng thủ; tiếp đến trời Ðế Thích
Thiên Vương, Tát Ha thế giới chủ Ðại Phạm Thiên Vương, Nhật Thiên, Nguyệt
Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên, các chúng Trời như vậy thảy đều đến nhóm hội.
Lại nữa có trăm ngàn Long Vương. Gọi là: A Bát Lã Long Vương, Ê Lạ Bát Lị Long
Vương, Ðể Long Nghĩ Lệ Long Vương, Chủ Ðịa Long Vương, Bách Ðầu Long Vương,
Ngưu Ðầu Long Vương, Lộc Ðầu Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Bạt Nan Ðà Long
Vương, Ngư Tử Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Ta Nghiệt Lị Noa Long Vương,
các vị Long Vương như vậy hết thảy đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Ngạn Ðạt Phạ Vương. Gọi là: Cổ Âm Ngạn Ðạt Phạ Vương, Diệu
Thinh Ngạn Ðạt Phạ Vương, Thiên Tý Ngạn Ðạt Phạ Vương, Thiên Chủ Ngạn Ðạt Phạ
Vương, Thân Hoan Hỷ Ngạn Ðạt Phạ Vương, Chủng Chủng Nhạc Âm Ngạn Ðạt Phạ Vương,
Trang Nghiêm Ngạn Ðạt Phạ Vương, Hiện Ðồng Tử Thân Ngạn Ðạt Phạ Vương, Pháp Lạc
Ngạn Ðạt Phạ Vương, như vậy hết thảy các vị Ngạn Ðạt Phạ Vương đều đến nhóm
hội.
Lại trăm ngàn Khẩn Na La Vương. Gọi là: Diệu Khẩu Khẩn Na La Vương, Bảo Quang
Khẩn Na La Vương, Hi Di Khẩn Na La Vương, Hoan Hỷ Khẩn Na La Vương, Luân Trang
Nghiêm Khẩn Na La Vương, Châu Bảo Khẩn Na La Vương, Ðại Phúc Khẩn Na La Vương,
Kiên Cố Tinh Tấn Khẩn Na La Vương, Diệu Dũng Khẩn Na La Vương, Bách Khẩu Khẩn
Na La Vương, Ðại Thọ Khẩn Na La Vương, như vậy hết thảy các vị Khẩn Na La Vương
đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Trời nữ. Các vị ấy là: Tối Thượng Thiên nữ, Diệu Nghiêm Thiên
nữ, Kim Ðới Thiên nữ, Trang Nghiêm Thiên nữ, Văn Trì Thiên nữ, Cam Lồ Nguyệt
Thiên nữ, Thanh Tịnh Thân Thiên nữ, Bảo Quang Thiên nữ, Hoa Thân Thiên nữ,
Thiên Diện Thiên nữ, Khẩu Diễn ngũ Nhạc Âm Thiên nữ, Khoái Lạc Thiên nữ, Kim
Man Thiên nữ, Thanh Liên Hoa Thiên nữ, Tuyên Pháp Âm Thiên nữ, Diệu Lạc Thiên
nữ, Lạc Sanh Thiên nữ, Diệu Nghiêm Tướng Thiên nữ, Nghiêm Trì Thiên nữ, Bố Thí
Thiên nữ, Khiết Dĩ Thiên nữ, các Trời nữ như vậy thảy đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Long Vương nữ. Gọi là: Diệu Nghiêm Trì Long nữ, Mẫu Thử Lân La
Long nữ, Tam Kế Long nữ, Hòa Dung Long nữ, Thắng Cát Tường Long nữ, Ðiễn Nhãn
Long nữ, Ðiễn Quang Long nữ, Diệu Sơn Long nữ, Bách Quyến thuộc Long nữ, Ðại
Dược Long nữ, Nguyệt Quang Long nữ, Nhất Thủ Long nữ, Bách Tý Long nữ, Thọ Trì
Long nữ, Vô Phiền Long nữ, Thiện Trang Nghiêm Long nữ, Bạch Vân Long nữ, Thừa
Xa Long nữ, Vị Lai Long nữ, Ða Quyến Thuộc Long nữ, Hải Phúc Long nữ, Cái Diện
Long nữ, Pháp Tòa Long nữ, Diệu Thủ Long nữ, Hải Thâm Long nữ, Diệu Cao Cát
Tường Long nữ, các Long nữ như vậy cũng đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Ngạn Ðạt Phạ Nữ. Các vị ấy là: Ái Diện Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ái Thí
Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Vô Kiến Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Cát Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Kim
Cang Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Thọ Lâm Ngạn Ðạt Phạ nữ,
Bách Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Hoa Phu Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Man Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Cát
Tường Vương Ngạn Ðạt Phạ nữ, Cổ Âm Ngạn Ðạt Phạ nữ, Diệu Trang Nghiêm Ngạn Ðạt
Phạ nữ, Phong Lễ Ngạn Ðạt Phạ nữ, Pháp Ái Ngạn Ðạt Phạ nữ, Pháp Thí Ngạn Ðạt
Phạ nữ, Thanh Liên Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bách Thủ Ngạn Ðạt Phạ nữ, Liên Hoa Cát
Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðại Liên Hoa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thể Thanh Tịnh Ngạn Ðạt
Phạ nữ, Tự Tại Hạnh Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thí Ðịa Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thí Quả Ngạn Ðạt
Phạ nữ, Sư Tử Hộ Ngạn Phạ nữ, Cự Mẫu Na Hoa Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Diệu Ý Ngạn Ðạt
Phạn nữ, Huệ Thí Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ái Nhẫn Nhục Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðạt Phạ nữ,
Nhạo Chơn Tịch Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Nha Ngạn Ðạt Phạ nữ, Ðế Thích Ngạn Ðạt Phạ
nữ, Thế Chủ Quyến Thuộc Ngạn Ðạt Phạ nữ, Lộc Vương Ngạn Ðạt Phạ nữ, Biến Hóa
Cát Tường Ngạn Ðạt Phạ nữ, Diễm Phong Ngạn Ðạt Phạ nữ, Tham Giải Thoát Ngạn Ðạt
Phạ nữ, Sân Giải Thoát Ngạn Ðạt Phạ nữ, Si Giải Thoát Ngạn Ðạt Phạ nữ, Thiện
Tri Thức Quyến Thuộc Ngạn Ðạt Phạ nữ, Bảo Tòa Ngạn Ðạt Phạ Nữ, Vãng Lai Ngạn
Ðạt Phạ nữ, Hỏa Quang Ngạn Ðạt Phạ nữ, Nguyệt Quang Ngạn Ðạt Phạ nữ, Biến Chiếu
Nhãn Ngạn Ðạt Phạ nữ, Kim Diệu Ngạn Ðạt Phạ nữ, Nhạo Thiện Tri Thức Ngạn Ðạt
Phạ nữ, hết thảy các Ngạn Ðạt Phạ nữ như vậy cũng đều đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Khẩn Na La nữ. Gọi là Nhất Ý Khẩn Na La nữ, Thâm Ý Khẩn Na La
nữ, Phong Hành Khẩn Na La nữ, Thủy Hành Khẩn Na La nữ, Thừa Không Khẩn Na La
nữ, Tấn Tật Khẩn Na La nữ, Tài Thí Khẩn Na La nữ, Diệu Nha Khẩn Na La nữ, Vô
Ðộng Các Khẩn Na La nữ, Nhiễm Giới Khẩn Na La nữ, Xí Thạnh Quang Khẩn Na La nữ
Diệu Cát Tường Khẩn Na La nữ, Bảo Khiếp Khẩn Na La nữ, Quán Tài Khẩn Na La nữ,
Ðoan Nghiêm Khẩn Na La nữ, Kim Cang Diện Khẩn Na La nữ, Kim Sắc Khẩn Na La nữ
Thù Diệu Trang Nghiêm, Khẩn Na La nữ, Quảng Trạch Khẩn Na La nữ, Vi Nhiễu Thiện
Tri Thức Khẩn Na La nữ, Chủ Thế Khẩn Na La nữ, Hư Không Hộ Khẩn Na La nữ, Trang
Nghiêm Vương Khẩn Na La nữ, Châu Kế Khẩn Na La nữ, Tổng Trì Châu Khẩn Na La nữ,
Minh Nhơn Vi Nhiễu Khẩn Na La nữ, Bách Danh Khẩn Na La nữ, Thí Thọ Khẩn Na La
nữ, Hộ Trì Phật Pháp Khẩn Na La nữ, Pháp Giới Hộ Khẩn Na La nữ, Thượng Trang
Nghiêm Khẩn Na La nữ, Sát Na Thượng Khẩn Na La nữ, Cầu Pháp Thường Trì Khẩn Na
La nữ, Thời Thường Kiến Khẩn Na La nữ, Vô Úy Khẩn Na La nữ, Thú Giải Thoát Khẩn
Na La nữ, Thường Bí Mật Khẩn Na La nữ, Sử Tổng Trì Khẩn Na La nữ, Nhận Quang
Nhiễm Khẩn Na La nữ, Ðịa Hành Khẩn Na La nữ, Hộ Thiên Chủ Khẩn Na La nữ, Diệu
Thiên Chủ Khẩn Na La nữ, Bảo Vương Khẩn Na La nữ, Nhẫn Nhục Bộ Khẩn Na La nữ,
Hành Thí Khẩn Na La nữ, Ða Trụ Xứ Khẩn Na La nữ, Trì Chiến Khí Khẩn Na La nữ,
Diệu Nghiêm Khẩn Na La nữ, Diệu Ý Khẩn Na La nữ, hết thảy các vị Khẩn Na La nữ
như vậy cũng đến nhóm hội.
Lại có trăm ngàn Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca cũng đến nhóm hội. Cho đến trăm ngàn
chúng vô số tại gia, xuất gia, các ngoại đạo dị kiến khác như Ni Càn… cũng đều
đến nhóm trong đại hội này.
Lúc ấy, đại A Tỳ địa ngục phát ra ánh sáng lớn rực rỡ. Ánh sáng kia chiếu khắp
vườn cây Kỳ Ðà, vườn đó liền biến thành thanh tịnh. Hiện bày cột trụ thiên ma
ni quý báu trang nghiêm vi diệu viên mãn. Hiện ra lầu các lớn vàng báu xen nhau
trang sức. Lại hiện ra các phòng : hiện phòng vàng ròng thì cửa bằng bạc trắng,
hiện phòng bạc trắng thì cửa bằng vàng ròng. Hiện vàng bạc xen nhau dùng làm
các phòng, vàng bạc xen nhau lại làm các cửa. Hiện vàng bạc các báu xen nhau
trang nghiêm chính điện, vàng bạc xen nhau các báu vi diệu trang nghiêm cột
trụ. Hiện vàng ròng làm điện thì bạc trắng làm cột trụ, hiện bạc trắng làm điện
thì vàng ròng làm cột trụ. Hoặc bạc trắng làm điện thì các diệu báu khác của
cõi Trời nghiêm sức cột trụ.
Trên rừng cây Kỳ Ðà, hiện bày các thứ quý báu mầu nhiệm của cõi trời mà làm
trang nghiêm. Lại hiện ra những cây Kiếp Thọ bằng vàng ròng, lá bằng bạc trắng,
trên cây kia có treo các thứ trang nghiêm, trăm thứ thượng diệu y phục Kiều Xa
Da vi diệu, còn có màng lưới báu trăm ngàn chơn châu chuỗi ngọc anh lạc. Lại có
trăm ngàn thượng diệu mão báu, vòng tai, dây đeo châu ngọc, quý báu xen nhau mà
nghiêm sức đẹp đẽ. Lại có các hoa khác nhau màu sắc rực rỡ chen nhau đua nở và
có các thứ ngọa cụ thượng diệu, rương báu nhiệm mầu đựng các đồ trang sức. Các
thứ cây trang nghiêm Kiếp Thọ như vậy, số kia xuất hiện có hơn trăm ngàn, vườn
rừng Kỳ Ðà và các cửa nẻo lầu các ấy, dùng toàn vàng Kim Cang diệu bảo mà làm
các thềm bực. Trên lầu kia có vô số thứ thú thắng mầu nhiệm lụa the, nhung gấm,
chơn châu, chuỗi ngọc anh lạc, trang nghiêm như thế.
Lại có trăm ngàn ao báu thượng diệu, trong ao kia chứa đầy đủ tám công đức, có
các thứ tạp hoa thơm diệu nở rộ đầy khắp như: Hoa Ưu Bát La, hoa Cự mẫu Na, hoa
Bôn Noa Lị Ca, hoa Mạn Na Ra, hoa Ma Ha Mạn Na Ra, hoa Ưu Ðàm Bát La, các hoa
thảy đều đầy khắp trong ao. Còn có các thứ cây hoa thượng diệu như: Cây hoa
Chiêm Ba Ca, cây Ca Ra Ni, cây Ra Hoa, cây hoa Ba Tra Lạ, cây hoa Diệu Giải
Thoát, cây Hương Vũ, cây hoa Diệu Ý, có các thứ cây hoa như vậy, lòng rất ưa
thích. Vườn rừng cây Kỳ Ðà hiện ra tướng thật trang nghiêm hy hữu, thanh tịnh
nhiệm mầu.
Lúc bấy giờ trong hội có vị Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát từ toà ngồi mà đứng dậy,
trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan
của Ðức Thế Tôn mà bạch Phật rằng: bạch Thế Tôn! Con nay trong tâm có việc nghi
muốn thưa hỏi đức Như Lai. Cúi mong Thế Tôn cho phép con được thưa hỏi. Bạch
Thế Tôn! Nay ở đây có ánh hào quang sáng rực rỡ, ánh sáng ấy từ đâu đến hay từ
nhơn duyên nào mà chiếu hiện tướng đẹp đẽ lạ lung như vậy?
Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử! Các
ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Hào quang sáng rực kia là
của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát. Vào trong đại A Tỳ địa ngục, vì muốn
cứu độ tất cả hữu tình chịu đại khổ não trong ấy. Cứu khổ nơi đó rồi, lại vào
thành lớn để cứu độ cái khổ của tất cả ngạ quỷ. Khi đó Ngài Trừ Cái Chướng đại
Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Cõi A Tỳ đại địa ngục thành sắt bao
quanh, đất lại là sắt, bốn phía thành kia không có kẻ hở, lửa dữ hừng hẩy luôn
luôn thiêu đốt. Trong cõi ác thú địa ngục như vậy, có những nồi nước sôi lớn,
nước sôi kia trào sùng sục; tất cả trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình đều bị
ném vào trong nồi nước ấy. Những nồi nước ấy như hầm nấu các thứ hạt đậu, lúc
thì sôi sục nhào lên hoặc lộn xuống, hầm nấu chín nát mà không bao giờ gián
đoạn. Trong A Tỳ địa ngục kia các loài hữu tình phải chịu nhiều thống khổ như
thế.
Bạch Thế Tôn! Ngài Thánh Quán Tự Tại đại Bồ Tát dùng phương tiện gì mà vào được
trong ấy? Ðức Thế Tôn lại bảo Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát rằng: Này thiện nam tử!
Cũng như vua Chuyển luân Thánh vương vào vườn Ma Ni Bảo cõi trời vậy. Như thế
đó thiện nam tử! Ngài Thánh Quán Tự Tại đại Bồ Tát khi vào đại A Tỳ địa ngục,
thân Ngài không hề có chướng ngại. Lúc đó đủ tất cả cái khổ của A Tỳ địa ngục
không thể ép thân của Bồ Tát, lửa dữ hừng hẩy của địa ngục kia thảy đều dập
tắt, biến thành nơi mát mẻ. Khi ấy Diêm Ma địa ngục tốt trong ngục ngạc nhiên,
tâm sanh kinh sợ lạ lung chưa từng có, cớ chi nơi đây thoạt nhiên biến thành
tướng lạ phi thường như thế? Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vào trong ngục
dập tắt lửa dữ, đập phá nồi nước sôi, lò lửa ấy biến thành ao báu mát mẻ, hoa
sen trong ao lớn như bánh xe. Bấy giờ Diêm Ma ngục tốt thấy việc đó rồi đem các
khí cụ trừng trị hình phạt như cung, kiếm, dùi, gậy, chỉa ba nhọn, bánh xe sắt,
cung tên… đem đến cho Diêm Ma Thiên Tử, đến rồi bạch rằng: Ðại Vương chắc Ngài
hay biết, chỗ nghiệp báo này vì sao thảy đều bị tận diệt? Lúc ấy Diêm Ma Thiên
Tử nói rằng: Thế nào, sở nghiệp báo của ngươi bị tận diệt sao? Lại bạch Diêm Ma
Thiên Tử rằng: Ðại địa ngục A Tỳ kia đã biến thành nơi mát mẻ. Khi xảy ra việc
như vậy, có một người sắc tướng uy nghiêm, đầu búi tóc Thiên diệu, đội mão báu
trang nghiêm, Ngài vào trong địa ngục pháp vỡ nồi nước sôi, hầm lửa trở thành
ao nước mát, trong ao có hoa sen lớn như bánh xe. Lúc bấy giờ, Diêm Ma Thiên Tử
suy nghĩ: Người cõi trời nào mà oai lực như thế? Hay trời Ðại Tự Tại, trời Na
La Diên … đến địa ngục biến hiện không thể nghĩ bàn. Hay là Thập Ðầu La Sát Ðại
Lực Oai Thần biến hóa ư! Bấy giờ Diêm Ma Thiên Tử dùng thiên nhãn xem thấy khắp
các cõi trời, rồi lại xem nơi A Tỳ địa ngục, thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, thấy
như vậy, Diêm Ma Thiên Tử vội nhanh chân bước đến chỗ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát.
Ðến rồi gục đầu lễ sát chân Ngài, mà pháp lời thành kính dùng kệ khen rằng:
Quy mạng Liên Hoa Vương, đại bi Quán Tự Tại.
Ðại Tự Tại Cát Tường, hay thí nguyện hữu tình.
Ðủ đức đại oai thần, hàng phục cực bạo ác.
Nơi tối làm đèn sáng, thấy ấy đều không sợ.
Thị hiện trăm ngàn tay, mắt kia cũng lại vậy.
Ðầy đủ mười một mặt, trí như bốn biển lớn.
Ham ưa pháp vi diệu, vì cứu các hữu tình.
Trạnh các các thủy tộc, tối Thượng Trí như núi.
Thí báu giúp quần sanh, tối thượng đại Cát Tường.
Phước trí đủ trang nghiêm, vào nơi ngục A Tỳ.
Biến thành nơi mát mẻ, các trời đều cúng dường.
Ðảnh lễ Thí vô úy, nói sáu Ba la Mật.
Thường thắp đèn đuốc pháp, mắt pháp dụ trời sáng
Sắc tướng mầu đoan nghiêm, thân tướng như núi vàng.
Bụng mầu sâu bể pháp, tương ưng ý chơn như.
Trong miệng hiện diệu đức, chứa nhóm Tam ma địa.
Vô số trăm ngàn muôn, có vô lượng khoái lạc.
Ðoan nghiêm Tiên tối thượng, sợ hãi trong ác đạo.
Cùm trói được giải thoát, Vô úy thí tất cả.
Các quyến thuộc doanh vây, mong cầu đều như ý.
Như được ma ni báu, phá hoại Ngã quỷ thành.
Khai mở đạo tịch tịnh, cứu độ bịnh thế gian.
Như tàng cái che tràng, Nan Ðà, Bạt Nan Ðà.
Hai Long Vương thân cận, tay cầm Bất Không Tác.
Hiện vô số oai đức, hay phá kiếp ba cõi.
Kim Cang Thủ Dược Xoa, La Sát và Bộ Ða.
Vĩ Ða Noa Chỉ Nễ, và cùng Củng Bàn Noa.
A Bát Ta Ma Ra, thảy đều ôm lo sợ.
Mắt Ưu Bát La hoa, Minh Chủ Thí Vô Úy.
Tất cả thảy phiền não, các món đều giải thoát.
Vào nơi vi trần số, trăm ngàn Tam ma địa.
Khai thị các cảnh giới, tất cả trong ác đạo.
Ðiều khiến được giải thoát, thành tựu đạo Bồ đề.
Khi ấy Diêm Ma Thiên Tử, ngợi khen tán thán cúng dường đức Quán Tự Tại Bồ Tát,
xong nhiễu quanh ba vòng, rồi trở về chỗ cũ.
Lúc bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Ðức Phật rằng: “Thưa Thế Tôn!
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát cứu cái khổ đó rồi trở lại trong hội này ư?” Phật dạy
Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: “Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát từ đại
địa ngục A Tỳ ra rồi lại trở vào thành lớn Ngã quỷ, trong đó có vô số trăm ngàn
ngã quỷ miệng cháy ra lửa, đốt cháy mặt mày, hình thể khô gầy, đầu tóc bờm xờm,
lông mình dựng đứng, bụng lớn như núi, cổ nhỏ như kim. Lúc ấy, Ngài Quán Tự Tại
Bồ Tát đến thành lớn ngã quỷ, thành kia lửa đang cháy hừng hực, bỗng nhiên
nghiệp hỏa thảy đều dập tắt trở thành mát mẻ”. Bấy giờ có quỷ giữ cửa cầm gậy
sắt, hình hài xấu xí, đôi mắt đỏ ngầu phát khởi tâm lành: “Tôi nay khỏi phải
coi giữ nơi ác nghiệp này nữa”. Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát khởi lòng
đại bi, nơi mười ngón tay Ngài biến ra dòng sông trong, nơi ngón chân cũng pháp
ra dòng suối nước mát, mỗi lỗ chân lông đều biến ra dòng sông lớn, cái loài ngã
quỷ uống được nước ấy. Khi uống được nước rồi thì yết hầu mở lớn thân tướng đầy
đủ, lại được ăn no đủ các thứ thượng vị, các ngã quỷ này được lợi ích an vui
như vậy, tâm liền suy xét. Cớ sao người Nam Thiệm Bộ Châu thường được mát mẻ,
yên ổn, khoái lạc? Ở trong châu ấy hoặc hay thường làm điều lành, cung kính
hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc có điều lành, cung kính hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc có điều
lành hay bố thí, vâng thờ thiện tri thức, hoặc thông minh trí huệ thường ham
Ðại Thừa, hoặc có điều lành hay kiến lập pháp tràng nói pháp hòa nhã, hoặc có
điều lành hay tu sửa các chốn Già lam hư hoại, hoặc có điều lành hay tu sửa
tháp Phật, hoặc có điều lành hay tu sửa tháp Tướng Luân suy hoại, hoặc có điều
lành hay cúng dường tôn trọng Pháp Sư, hoặc có điều lành thấy được chỗ đức Như
Lai kinh hành, hoặc có điều lành hay thấy được chỗ Bích Chi Phật kinh hanh,
hoặc có điều lành hay thấy được chỗ A La Hán kinh hành. Khởi lên suy nghĩ, Nam
Thiệm Bộ Châu có các việc tu hành như thế. Lúc ấy trong Kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm
Bảo Vương tự nhiên phát ra tiếng vi diệu mầu nhiệm, các ngã quỷ ấy được nghe
tiếng kia, chỗ chấp thân kiến tuy như núi cao, cùng các tùy hoặc phiền não, trí
Kim Cang xử phá hoại không sót, liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều
làm Bồ Tát tên Tùy Ý Khẩu. Lúc ấy Quán Tự Tại đại Bồ Tát cứu khổ đó rồi, lại
qua các thế giới phương khác, cứu độ các loài hữu tình.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài quán ự
tại Bồ Tát, đến nơi chốn ấy cứu độ hữu tình ư?”. Ðấng Thế Tôn dạy rằng: “Này
thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát cứu độ không ngừng vô số trăm ngàn Câu
chi na khố đa hữu tình, không lúc nào tạm nghỉ, lại đủ đại oai đức quá hơn Như
Lai”. Trừ Cái Chướng bạch rằng: “Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát làm thế
nào có sức đại oai thần như thế?”
Phật dạy: “Này thiện nam tử! Về kiếp quá khứ có một vị Phật ra đời, hiệu là Tỳ
Bát Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Thời ấy
tôi làm con của một nhà trưởng giả, gọi là Diệu Hương Khẩu, nơi chỗ Phật ấy và
đã nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Bấy giờ Trừ Cái Chướng
bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngài đã nghe Quán Tự Tại đại Bồ Tát, công đức oai
thần như thế nào?” Ðấng Thế Tôn dạy rằng: “Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, nơi đôi mắt
Ngài phát ra mặt trời, mặt trăng; nơi trán phát ra trời Ðại Tự Tại; nơi vai
phát ra trời Phạm Vương; nơi tim phát ra trời Na La Diên; răng phát ra trời Ðại
Biện Tài, miệng phát ra trời Phong Thiên; rún phát ra trời Ðịa Thiên; bụng phát
ra trời Thủy thiên; thân của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phát ra các thứ như thế”.
Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ Tát bảo trời Ðại Tự Tại thiên rằng: “Ông ở đời vị lai
nhằm đời mạt pháp, trong cõi hữu tình có những chúng sanh chấp trước tà kiến,
đều gọi ông từ vô thỉ đến giờ đã làm đại chủ tể, sanh ra tất cả hữu tình, khi
ấy chúng sanh mất đạo Bồ đề, ngu si mê hoặc mà nói lên như thế rằng:
Thân lớn như hư không, đất lớn lấy làm tòa.
Cảnh giới và hữu tình, đều từ thân ấy ra.
Như vậy thiện nam tử! Tôi ở chỗ Tỳ Bát Thi Như Lai, sau khi nghe rồi, lại có
Phật ra đời, hiệu là Thức Khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật Thế Tôn. Trừ Cái Chướng! Tôi thời lấy làm Dõng Thí đại Bồ Tát, ở chỗ Phật
kia nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Trừ Cái Chướng thưa
rằng: “Ðức Thế Tôn! Ngài đã nghe Quán Tự Tại đại Bồ Tát, oai thần công đức như
thế nào?”. Khi ấy Phật dạy rằng: “Trong hội Thức Khí Như Lai, có tất cả Trời,
Rồng, Dược Xoa, A Tô La, Nghiệt Lỗ Noa, Ma Hộ La Nga, người và chẳng phải người
thảy đến nhóm hội.
Ðức Thế Tôn thời ấy, ở trong chúng khi muốn nói pháp, miệng phóng ra các sắc
ánh sáng xen lẫn. Nghĩa là sắc xanh ánh sáng xanh, sắc vàng ánh sáng vàng, sắc
đỏ thì ánh sáng đỏ, sắc trắng thì ánh sáng trắng, sắc hồng thì ánh sáng hồng,
sắc pha đê ca ánh sáng pha đê ca, sắc vàng kim ánh sáng vàng kim sắc. Hào quang
sáng kia chiếu khắp mười phương thế giới. Hào quang sáng ấy trở lại nhiễu Phật
ba vòng, rồi nhập vào trong miệng Ngài.
Lúc ấy trong hội có Bảo Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo
bên hữu, gối hữu sát đất, chấp tay cung kính mà bạch đức Thế Tôn rằng: “Nhơn
duyên gì hiện ra điềm gì?”.
Phật bảo: Này thiện nam tử! Cõi Cực Lạc thế giới có Quán Tự Tại đại Bồ Tát,
muốn đến nơi đây nên hiện điềm lành đó. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát khi đến nơi
này, xuất hiện ra các thứ cây hoa Kiếp Thọ, cây hoa Cự Mẫu Na, cây hoa Chiêm Ba
Ca, lại hiện ra cùng các hoa khác xen nhau. Hoa báu, ao báu, cây báu, mưa rưới
các thứ hoa nhiệm mầu thơm tho. Lại mưa xuống các thứ ngọc quý báu, chơn châu,
lưu lu, ngọc ma ni bảo, loa bối bích ngọc, san hô … Mưa xuống những áo trời đẹp
đẽ như mây tuôn.
Thời bấy giờ rừng cây Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộc có bảy báu xuất hiện gọi là Kim
Luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ kho tàng báu, chủ binh báu,
bảy báu như vậy đồng thời xuất hiện. Mặt đất đều biến thành vàng ròng kim sắc.
Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, lúc rời khỏi Cực Lạc thế giới, đất chuyển
động sáu lần. Bấy giờ Bảo thủ đại Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Vì nhân duyên
gì xuất hiện điềm ấy?
Phật dạy: thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát muốn qua đến đây nên hiện điềm
đó.
Khi ấy mưa xuống các thứ hoa thơm mầu nhiệm và hoa sen vi diệu lòng rất ưa
thích. Bấy giờ Bồ Tát Quán Tự Tại tay cầm hoa sen ngàn cánh ánh sáng vàng chói
đến chỗ Phật mà đảnh lễ dưới chân Ngài rồi dâng hoa sen lên cúng dường đức Thế
Tôn. Hoa sen này của Phật Vô Lượng Thọ (A Di Ðà) khiến con đem đến dâng. Ðức
Thế Tôn nhận hoa sen ấy rồi để qua bên trái.
Phật bảo Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát: Ông nay hiện ra thần thông công đức trang
nghiêm ấy là chi? Quán Tự Tại thưa: Con vì muốn cứu độ tất cả hữu tình trong ác
thú, nghĩa là tất cả ngã quỷ A Tỳ địa ngục như Hắc Thằng địa ngục, Ðẳng Hoạt
địa ngục, Thiên Nhiên địa ngục, Ðường Ối địa ngục, Hoạch Than địa ngục, Hàn
Băng địa ngục, trong những đại địa ngục như vậy có các chúng sanh, con đều cứu
vớt ra khỏi ác thú, sẽ được chứng đắc Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói như vậy rồi, đảnh lễ nơi chân Phật, lễ xong mà đi,
thoạt tiên biến mất cũng như ánh lửa xẹt vào hư không.
Lúc bấy giờ Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn: con nay có điều nghi, muốn thưa
hỏi đức Như Lai, mong Ngài vì con nói ra: Quán Tự Tại Bồ Tát có phước đức gì mà
nay hiện thần lực như vậy? Phật nói như Căng già hà sa số Như Lai Ứng Chánh
Ðẳng Giác, lấy thiên diệu y và ca sa y, đồ ăn uống thuốc thang, ngọa cụ … cúng
dường các Ðức Phật, như vậy phước đức thu được sánh bằng phước một sợi lông của
Quán Tự Tại, lượng đó không khác. Này thiện nam tử! Nơi bốn châu lớn có một
trăm mười hai tháng, ngày đêm thường mưa lớn, tôi có thể đếm số mỗi hạt mưa.
Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại tôi không thể nói hết số lượng. Thiện
nam tử! Lại như biển lớn sâu rộng tám vạn bốn ngàn du thiện na, nước bốn biển
lớn như vậy tôi có thể đếm số mỗi từng giọt. Thiện nam tử! Phước đức của Quán
Tự Tại Bồ Tát đã có, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại nhu bốn
đại bộ châu, loài hữu tình bốn châu như: sư tử, voi, ngựa, beo, cọp, sói, nai,
trâu, dê, tất cả nnhữntg thứ bốn chân như vậy, tôi có thể đếm số lông trong mỗi
thân đã có. Thiện nam tử! Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát tôi không thể nói
hết số lượng. Này thiện nam tử! Như có người vừa lấy vàng báu cõi trời, tạo ra
hình tượng Như Lai vô số nhiều như vi trần, một ngày đều được thành tựu các thứ
cúng dường, đã được công đức phước báu kia, tôi đều đếm số được. Thiện nam tử!
Phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử!
Tất cả rừng cây tôi có thể đếm hết mỗi một số lá, còn phước đức của Quán Tự Tại
Bồ Tát tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu có kẻ
nam tử, người nữ nhơn, trẻ đồng nam, đồng nữ, những người như thế đều thành
Thánh quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán, quả Duyên Giác Bồ đề, phước đức
đã có như vậy, sánh bằng một sợi lông phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát lượng
kia không khác.
Lúc bấy giờ Ngài Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Con từ xưa đến nay chưa
từng thấy cũng chưa từng nghe chư Phật Như Lai có phước đức như thế! Thưa Thế
Tôn! Ngài Quán Tự Tại còn ở địa vị Bồ Tát, cớ sao mà có phước đức như vậy? Phật
dạy: Thiện nam tử! Chẳng riêng cõi này chỉ một thân tôi cho đến phương khác vô
số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều vân tập đầy đủ một chỗ, cũng không thể nói
hết số lượng phước đức của Quán Tự Tại Bồ Tát. Thiện nam tử! Ở thế giới này nếu
có người nhớ niệm danh hiệu của Quán Tự Tại đại Bồ Tát, người đó sau này xa lìa
các khổ luân hồi sanh, già, bịnh, chết, cũng như con Nga vương theo gió mà đi,
mau được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, nghe được
diệu pháp, người như vậy vĩnh viễn không còn chịu khổ luân hồi, không tham sân
si, không già bịnh chết, không khổ đói khát, không chịu khổ sanh thân bào thai,
nương thừa pháp oai lực, hóa sanh trong hoa sen, thường ở cõi ấy hầu cận Quán
Tự Tại đại Bồ Tát, cứu độ tất cả hữu tình, đều được giải thoát kiên cố nguyện
mãn.
Lúc ấy Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Ngài Quán Tự Tại đây ở vào trường
hợp nào? Cứu độ tất cả hữu tình đều được giải thoát kiên cố mãn nguyện?
Ðức Thế Tôn dạy rằng: Hữu tình thì vô số thường chịu sanh tử luân hồi không
dứt, nên Quán Tự Tại Bồ Tát muốn cứu độ hữu tình được chứng đạo Bồ đề. Như vậy
nên Ngài tùy loại mà hiện thân thuyết pháp. Nên hiện thân Phật để độ, Ngài liền
hiện thân Phật mà nói pháp. Ðáng hiện thân Bồ Tát để độ, liền hiện thân Bồ Tát
mà nói pháp. Nên hiện thân Duyên Giác để độ, liền hiện thân Duyên Giác mà nói
pháp. Nên hiện thân Thanh Văn để độ, liền hiện thân Thanh Văn nói pháp. Nên
hiện thân trời Ðại Tự Tại để độ, liền hiện thân trời Ðại Tự Tại mà nói pháp.
Nên hiện thân trời Na La Diên để độ, liền hiện thân trời Na La Diên vì đó nói
pháp. Nên hiện thân trời Phạm Vương để độ, liền hiện thân Phạm vương mà nói
pháp. Nên hiện thân trời Ðế thích để độ, liền hiện thân Ðế Thích vì đó mà nói
pháp. Nên hiện Nhựt Thiên tử để độ, liền hiện thân Nhựt Thiên tử mà nói pháp.
Nên hiện thân Nguyệt Thiên tử để độ, liền hiện thân Nguyệt thiên tử để nói pháp.
Nên hiện thân Hoả Thiên để độ, liền hiện thân Hoả thiên mà nói pháp. Nên hiện
thân Thủy Thiên để độ, liền hiện thân Thủy thiên vì đó nói pháp. Nên hiện thân
Phong Thiên để độ, liền hiện thân Phong Thiên mà nói pháp. Nên hiện thân Long
thân để độ, liền hiện thân Long thân vì đó nói pháp. Nên hiện thân Tần Na Dạ Ca
để độ, liền hiện thân Tần Na Dạ Ca mà nói pháp. Nên hiện thân Dược Xoa để độ,
liền hiện thân Dược Xoa nói pháp. Nên hiện thân Ða Văn Thiên Tuớng để độ, liền
hiện thân Ða Văn Thiên Tướng nói pháp. Nên hiện thân Nhơn Vương để độ, liền
hiện thân Nhơn Vương vì đó nói pháp. Nên hiện thân Tể Quan để độ, liền hiện
thân Tể Quan nói pháp. Nên hiện thân phụ mẫu để độ, liền hiện thân phụ mẫu vì
đó nói pháp.
Này thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, tùy theo các hữu tình đáng độ,
liền hiện thân ra như vậy mà nói pháp. Cứu độ các hữu tình khiến được chứng địa
vị Như Lai Niết Bàn.
Khi ấy Bảo Thủ Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Con chưa từng thấy cũng chưa từng
nghe việc hy hữu không thể nghĩ bàn như vậy. Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại Bồ
Tát, có việc không thể nghĩ bàn thật chưa từng có vậy?
Phật dạy: thiện nam tử! Hang Kim Cang nơi Nam Thiệm Bộ Châu này có vô số trăm
ngàn muôn Câu chi na khố đa A Tô La an ở trong đó.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát hiện thân làm A Tô La, vì A Tô La nói
kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này. Chúng A Tô La được nghe kinh ấy, đều
phát lòng từ thiện mà lấy tay ôm chân Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, nghe Chánh
pháp này đều được an vui. Nếu có người nghe được Vương Kinh này mà hay đọc
tụng, thì người đó nếu có tội nghiệp ngũ vô gián đều được tiêu trừ. Khi mạng
gần chết, có mười hai đức Như Lai đến nghinh đón mà bảo người đó rằng: Thiện
nam tử! Chớ nên lo sợ, ngươi đã được nghe kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.
Chỉ rõ đường vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới, có bảo cái vi diệu, mão trời
đẹp đẽ dây đeo châu ngọc, vòng quý đeo tai, thượng diệu y phục, hiện tướng như
thế. Chết rồi quyết được vãng sanh Cực Lạc thế giới.
Bảo Thủ! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, hiện thân A Tô La này tối thắng không thể
sánh kịp, khiến A Tô La kia sẽ được địa vị Niết Bàn.
Khi ấy Bảo Thủ Bồ Tát đầu mặt sát đất, lễ nơi chân đức Thế Tôn, lễ rồi mà trở
về.
HẾT QUYỂN 1
KINH PHẬT THỪA TRANG NGHIÊM
BẢO VƯƠNG KINH
QUYỂN 2
NAM MÔ ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM
BẢO VƯƠNG KINH
HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA
TÁT
Sau thời kỳ Phật Thức Khí, có Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Xá Phù
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Trừ Cái Chướng!
Tôi ở thời ấy làm Nhẫn Nhục Tiên Nhơn nơi thâm sơn. Chỗ ấy núi cao hiểm trở sỏi
đá khô cằn, không người lai vãng ở lâu trong đó. Bấy giờ, tôi ở chỗ đức Như Lai
kia, nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, Ngài Quán Tự Tại
hiện thân vào nơi kim vị, vì Phú Diện hữu tình mà nói diệu pháp, chỉ bày Bát
Chánh Ðạo, đều khiến chứng được địa vị Niết Bàn. Ra khỏi kim địa này lại vào
ngân địa. Chỗ ấy hữu tình đều là bốn chân. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vì loài
hữu tình kia mà nói pháp: “Ngươi nên lắng nghe! Chánh pháp như vậy, cần phải
phát tâm suy xét chín chắn, ta nay chỉ bày tư lương Niết Bàn cho ngươi.” Các
hữu tình ấy đứng trước Ngài Quán Tự Tại bạch Bồ Tát rằng: “Hữu tình không mắt,
cứu làm sáng tỏ, khiến được thấy đường. Không nơi nương nhờ, lại làm cha mẹ,
khiến được nhờ nương. Trong đường tăm tối làm đèn đuốc sáng, khai mở chánh đạo
là nguồn giải thoát. Nếu có hữu tình niệm danh hiệu Bồ Tát thì được an vui.
Chúng tôi thường chịu khổ nạn như vậy.” Khi ấy tất cả những hữu tình nghe kinh
Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, được nghe kinh rồi, liền được an vui, chứng
bậc Bất thối.
Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ra khỏi nơi ấy lại vào thiết địa mà nơi ấy
là chỗ cấm của vua Ðại Lực A Tô La. Bồ Tát khi vào trong đó hiện thân như Phật.
Bây giờ vu đại Lực A Tô La, từ xa đến nghinh đón Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát
vào trong vương cung A Tô La, có vô số quyến thuộc, phần nhiều trong ấy đều là
lưng gù xấu xí, quyến thuộc như vậy đều đế, thân gần lễ bái nơi chân Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát mà nói bài kệ rằng:
Con đời nay đắc quả, chỗ nguyện thảy viên mãn.
Mong cầu được như ý, đấy là chánh kiến con.
Ðã được thấy Bồ Tát, con và các quyến thuộc đều được an vui, lại lấy bảo tòa
báu dâng hiến Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, chấp tay cung kính bạch rằng: Bọn quyến
thuộc chúng con từ xưa đến nay ham ưa việc tà dâm, thường ôm lòng sân hận, ưa
giết hại sanh mạng, tạo tội nghiệp âý, tâm con rất lo buồn, sợ hãi già chết
luân hồi, chịu nhiều điều khổ não, không nơi nương, không chỗ tựa. Cúi mong
Ngài thương tình cứu độ, vì con chỉ bày đường đạo giải thoát.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát dạy rằng: Thiện nam tử! Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác
thường làm hạnh khất thực, nếu ai bố thí đồ ăn sẽ được phước đức nói không kể
hết. Thiện nam tử! Chẳng những thân tôi tại hang A Tô La này nói không thể hết,
mà cho đến như mười hai Căng già hà sa số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều ở một
chỗ, cũng không thể nói hết phước đức số lượng như thế. Thiện nam tử! Vi trần
đã có, tôi có thể đếm số lượng của nó được. Thiện nam tử! Cúng thí cơm cho đức
Như Lai được phước đức đó, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại
như nước biển lớn, tôi có thể đếm mỗi một giọt nước kia được. Thiện nam tử!
Cúng thí đồ ăn cho đức Như Lai thì được phước đức tôi không thể nói hết số
lượng. Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu, đã có người nam, kẻ nữ, con trai,
con gái, thảy đều gieo ruộng, đầy khắp bốn đại châu, không trồng giống khác,
chỉ gieo hạt cải. Long rồng thuận thời, thường được mưa xuống, hạt cải chắc
tốt, nơi trong một châu lấy làm sân chứa, giậm đạp xong rồi gom thành đống lớn.
Thiện nam tử! Như vậy tôi có thể đếm hết số mỗi một hạt cải. Thiện nam tử! Cúng
thí đồ ăn cho đức Như Lai được phước đức tôi không thể nói hết số lượng. Thiện
nam tử! Lại như núi Diệu Cao Sơn Vương vào nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na,
ra nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na. Thiện nam tử! Như vậy núi Vương kia lấy
làm giấy, lấy nước biển lớn chứa đầy trong đó, đều làm nước mực. Ðem bốn đại
châu gồm có tất cả kẻ nam, người nữ, con trai, con gái, thảy đều chép viết
lượng núi Diệu Cao đã chứa giấy ấy, chép hết không sót, như vậy tôi có thể đếm
số mỗi một chữ kia. Thiện nam tử! Cúng thí món ăn cho đức Như Lai được phước
đức mà tôi không thể nói số lượng. Thiện nam tử! Như vậy tất cả người chép viết
ấy, đều đắc Thập Ðịa Bồ Tát vị. Như vậy Bồ Tát đã có phước đức, cùng với cúng
thí cho đức Như Lai một bữa ăn, lượng phước đức kia bằng nhau không khác. Thiện
nam tử! Như Căng già sa hà sa số biển lớn, trong đó có số cát, tôi có thể đếm
mỗi một hột các kia. Thiện nam tử! Cúng dường bữa ăn cho đức Như Lai được phước
đức mà tôi không thể nói hết số lượng. Lúc bấy giờ vua Ðại Lực A Tô La nghe nói
việc đó buồn khóc thảm thiết, lệ chảy tuôn tràn, ôm lòng buồn khổ nghẹn ngào
than thở. Bạch Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Con từ xa xưa làm việc bố thí,
nhưng chỗ thí ấy tối tăm phi pháp, do việc thí ấy cho nên con nay và các quyến
thuộc ngược lại phải chịu nghiệp báo ràng buộc ở trong ác thú, nay đây làm thế
nào đem ít phần thực, phụng dâng Như Lai biến thành cam lồ. Con từ xưa đến nay
ngu si vô trí, tập hành ngoại đạo pháp Bà la môn. Thời ấy có một người thân
hình hèn xấu, đến nơi chỗ con cầu xin cần thiết. Con đem bày đủ các thứ mão báu
đẹp đẽ, vàng bạc vòng tai, y phục thượng diệu, đủ báu trang nghiêm, đồ đựng ứ
già … Lại có trăm ngàn voi ngựa xe báu, chơn châu anh lạc, lưới báu trang
nghiêm, treo các chuỗi ngọc xen nhau trong sức, có các thức tàn báu, lưới báu,
màng trướng, trên treo các linh báu tiếng khua lung linh mầu nhiệm. Lại có một
ngàn con trâu màu vàng lông sắc tuyệt đẹp, móng bạc trang nghiêm, sừng vàng
phục sức. Lại dùng các báu xen nhau trang điểm. Còn có một ngàn đồng nữ hình
thể đẹp đẽ, dung mạo đoan nghiệm, dường như thiên nữ, đầu đội mão trời, vàng
báu đeo tai, thân mặc diệu y, lưng đeo dây báu, vòng quý đeo tay, chuỗi ngọc
anh lạc, khua rung êm diệu, tràng hoa mầu nhiệm, các thứ như vậy thân đều trang
sức. Lại có các thứ tòa báu vô số trăm ngàn. Còn có các thứ vàng bạc châu báu
chứa để vô số. Có các trâu dê số trăm ngàn vạn, và người chăn thả cũng nhiều
như thế. Các thứ đồ ăn mỹ vị thơm tho như ở cõi trời. Còn có vô số linh báu, vô
số tòa sư tử bằng vàng bạc, vô số phất trần vàng báu đẹp đẽ. Vô số đồ bảy báu
trang nghiêm tàn lọng. Khi bày đủ các thứ như vậy làm đại bố thí, thì có trăm
ngàn Tiểu vương đều đến nhóm hội. Có vô số trăm ngàn muôn chúng Sát Ðế Lợi cũng
đến nhóm hội.
Khi con thấy rồi lòng sanh nghi hoặc. Ðương thời ấy con là tối tôn, đủ thế lực
mạnh thống lãnh đại địa. Con y phép Bà la môn, chuyên làm sám hối túc thế ác
nghiệp, muốn giết các Sát đế lợi và vợ con quyến thuộc của họ, lấy cắt tim gan
để cúng tế trời, mong trời diệt tôi. Khi ấy con đem trói hết tay chân và nhốt
hết vào trong hang cấm bằng đồng trăm ngàn người biên địa, cũng đều bỏ vào
trong hang cấm, lấy dây sắt trói vào cột sắt, trói cột tay chân tất cả người
ấy. Bây giờ con tạo dựng cửa hang, lấy cây thường làm lớp cửa thứ nhứt, lấy cây
khư nhĩ làm lớp cửa thứ hai, dùng sắt làm lớp cửa thứ ba, lấy thục đồng làm lớp
cửa thứ tư, lấy sanh đồng làm lớp cửa thứ năm, lấy bạch ngân làm lớp cửa thứ
sáu, lấy
huỳnh kim làm lớp cửa thứ bảy, trên bảy lớp cửa như vậy. Mỗi cái dùng năm trăm
dây xiềng đóng chắc chắn, lại nơi mỗi cửa đè lên một hòn núi. Khi ấy có trời Na
La Diên thoạt nơi một ngày hiện thân làm con ruồi bay đến dò xem. Lại một ngày
nữa hiện hình con ong. Lại một ngày nữa hiện hình con thân heo. Một ngày nọ
hiện tướng phi nhơn. Cứ thế ngày ngày thân tướng thay đổi dò xem. Con bây giờ
trong tâm suy nghĩ làm làm phép Bà la môn, trời Na La Diên thấy con làm phép
đó, đến nơi hang đồng mà phá hoại dẹp bỏ bảy lớp cửa, đem mỗi hòn núi ném qua
nơi khác và lớn tiếng kêu những người bị trói rằng: Vô Thắng Thiên Tử! Các
ngươi thân chịu đại khổ não, thân mạng các ngươi còn sống hay đã chết. Những
người này nghe tiếng kêu hỏi, lên tiếng trả lời: “Mạng tôi nay còn đây.” Trời
Na La Diên Tôn sai Ðại Lực Tinh Tấn cứu khổ nạn tới, trời kia liền pháp hoại hang
đồng cùng bảy lớp cửa, khi ấy các tiểu vương ở tại hang đồng, liền được thoát
nạn trói buộc mà thấy trời Na La Diên.
Bấy giờ những người lòng toan suy nghĩ, Ðại Lực A Tô La Vương kia đã chết rồi
ư? Hay lại ở đâu hay chết phương nào? Những Sát đế lợi lại nói lên rằng: Tôi
thà cùng họ đối địch giết nhau chết mà còn có đất, chứ không chịu trói cột thế
này đến phải chết, tôi nay sẽ y pháp Sát đế lợi cùng họ chiến đấu giết nhau,
giả như có chết tại nơi đất ấy cũng được sanh Thiên. Giờ các Tiểu vương nơi tại
nhà mình bày biện xe giá, yên cương dây ngựa, tay cầm dùi gậy muốn đại chiến
đấu.
Bấy giờ, trời Na La Diên hiện Bà la môn thân hình lùn xấu, mặc áo giáp da, quấn
quanh nơi vai, trong tay nắm cầm chĩa ba cây nhọn, làm vật tùy thân, qua đến
cửa con. Khi ấy kẻ giữ cửa bảo người kia rằng: Không nên vào cửa này, người ông
hèn xấu, chớ có vào trong. Bà la môn nói: Tôi nay từ xa mà qua đến đây. Kẻ giữ
cửa hỏi Bà la môn rằng: Ông từ đâu đến? Bà la môn đáp: Tôi là Ðại Tiên Nhơn làm
Quốc vương xứ Nguyệt Thị, từ đó mà đến đây. Bây giờ kẻ giữ cửa đến chỗ Ðại Lực
A Tô La Vương nói: Người ấy nay đến đây để làm gì? Người giữ cửa nói: Tôi nay
không biết họ đến làm gì? Ðại Lực A Tô La Vương bảo rằng: Ngươi đi kêu Bà la
môn đến. Người giữ cửa vâng lệnh gọi Bà la môn vào trong. Ðaị Lực A Tô La vương
thấy rồi liền mời ngồi tòa báu. Kim Tinh là thầy đã được A Tô La Vương hầu hạ
phụng sự ở trong đó, bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Nay Bà la môn này là người
đại ác, lại đến đây quyết định phá hoại thầy ông. Nay sao biết ư? Bảo rằng: Tôi
nay biết đó. Sao biết thân ta đã hiện ấy là trời Na La Diên? Ðã nghe thấy rồi
tâm liền suy nghĩ. Con làm huệ thí thì không phản phúc, nay đến chướng nạn phá
hoại nơi con. Ðại Lực A Tô La nói: Con miệng biện tài cần gì hỏi Bà la môn: Ông
đến chỗ tôi là có ý gì? Bà la môn đáp: Tôi đến xin vua hai dặm đất. A tô La bảo
Bà la môn rằng: khanh cần xin hai dặm đất, tôi sẽ cho khanh đất kia ba dặm.
Trước lấy bình vàng trao nước tịnh thủy, bảo rằng cần đất khanh sẽ thọ lấy. Bà
la môn thọ rồi mà chúc nguyện an vui trường thọ.
Bấy giờ Bà la môn biến mất thân hìn xấu xí. Lúc ấy Kim tinh bảo A Tô La Vương
rằng: Ông nay sẽ chịu ác nghiệp quả báo. Bây giờ trời Na La Diên thoạt nhiên
hiện thân, trên vai gánh hai vầng nhật nguyệt tay cầm gươm bén, tay bưng luân
báu cung tên cây gậy. Khi ấy Ðại Lực A Tô La Vương bỗng nhiên thấy rồi giựt
mình run sợ, thân người té xỉu mê man dưới đất, giây lâu mới tỉnh, nay phải sao
đây! Ta thà tự vẫn thuốc độc mà chết ư? Khi ấy trời Na La Diên đang đo số đất
chỉ còn hai dặm chứ không có nữa, chẳng đủ ba dặm trái lời hứa trước, tôi nay
làm? Na La Diên nói với vua rằng: Nay phải nên theo lời tôi chỉ bảo. Lúc đó,
Ðại Lực A Tô La Vương thưa rằng: Tôi xin vâng lời chỉ giáo. Trời Na La Diên
nói: Ngươi thật ấy ư? Ðại Lực A Tô La Vương thưa: Tôi như thật vậy. Ðây là lời thành
thật tôi không hối tiếc.
Thời ấy con y Bà la môn giáo, làm chỗ tác pháp đều bị phá hoại những của cải đã
có, vàng bạc trân báu, đồng nữ trang nghiêm, y phục linh báu, tàn lọng, phất
mầu, bảo tòa sư tử, trâu vàng nghiêm báu, cùng các quý khác trang nghiêm đầy
đủ. Bấy giờ tiểu vương cùng thảy các chúng đều thọ nhận lấy, tức thời ra khỏi
nơi chỗ tác pháp Ðại Lực A Tô La vơng.
Vua Ðại Lực A Tô La bạch Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát rằng: Con nay tâm hằng suy
nghĩ, vì khi xưa kia y pháp Bà la môn, làm đại hội bố thí, việc bố thí của con
thật mê muội sai lầm. Con nay và các quyến thuộc, vì thế bị cầm giữ trong hang
sắt này, chịu đại khổ não. Ngài Quán Tự Tại! Con nay xin quy y, mong Ngài
thương xót, cứu thoát chúng con khỏi khổ nạn. Rồi làm lời khen rằng:
Quy mạng Ðại Bi Liên Hoa Thủ,
Ðại Liên Hoa Vương đại Cát Tường.
Các thứ trang nghiêm diệu sắc thân,
Ðầu đội mão trời trang nghiêm các báu.
Ðảnh đội Di Ðà nhất thiết trí,
Cứu độ hữu tình hằng vô số.
Người thì bịnh khổ cầu an vui,
Bồ Tát hiện thân làm thầy thuốc.
Mắt sáng mặt trời nơi đại địa,
Tối thượng thanh tịnh mắt mầu nhiệm.
Chiếu soi hữu tình được giải thoát,
Ðược giải thoát rồi diệu tương ưng.
Cũng như như ý ma ni bảo,
Hay hộ chơn thật diệu Pháp Tạng.
Thường hằng nói sáu Ba la Mật,
Xương dương pháp ấy đủ đại trí.
Con nay khẩn thiết đến quy y,
Khen ngợi Ðại Bi Quán Tự Tại.
Hữu tình nhớ niệm danh Bồ Tát,
Lìa khổ giải thoát được an vui.
Tạo gây ác nghiệp đọa Hắc Thằng,
Và đại A Tỳ địa ngục đạo.
Có các ngã quỷ nơi khổ thú,
Sợ sệt xưng danh đều giải thoát.
Như vậy ác đạo các hữu tình,
Thảy đều lìa khổ được an vui.
Nếu người hằng niệm Ðại Sĩ danh,
Sẽ được vãng sanh cõi Cực Lạc.
Thấy Phật Như Lai Vô Lượng Thọ.
Ðược nghe diệu pháp chứng Vô Sanh.
Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát thọ ký cho Ðại Lực A Tô La Vương: Ông đời vị
lai sẽ được thành Phật, hiệu rằng Cát Tường Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ông ở thời ấy sẽ chứng sáu chữ Ðại Minh của môn
Tổng Trì. Nay đây tất cả các A Tô La Vương, ở đời sau ông đều cứu độ. Tất cả
hữu tình ở cõi Phật như vậy,
không còn có tiếng tham sâm si. Bây giờ Ðại Lực A Tô La Vương đã được thọ ký
rồi, liền lấy trân châu anh lạc giá trị trăm ngàn cùng các thứ diệu báu mầu
nhiệm trang nghiêm, trăm ngàn muôn số mão trời vàng ngọc vòng tai, dâng lên
nguyện mong thọ nhận.
Lúc bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Ta nay
vì ông nói pháp, ông hãy lắng nghe mà suy nghĩ, đời người là vô thường giả tạm,
mạng căn khó bền lâu, trong tâm các ông thường suy nghĩ tham đắm đầy đủ đại
phước đức, lòng thì thường mến nhân dân tôi tớ, cho đến lúa nếp kho lẫm và kho
tàng của báu. Tâm thường luyến cha mẹ, vợ con, cho đến các quyến thuộc, những
thứ như vậy tuy hằng thương yêu nhưng chỉ như chiêm bao đã thấy, khi mạng chết
rồi không thể thay nhau cứu được. Mong được sống lâu ở Nam Thiệm bộ này, do
điên đảo đó nên sau khi mạng chung, thấy sông Nại Hà máu huyết tràn đầy, lại
thấy cây lớn lửa hừng cháy mạnh. Thấy việc ấy rồi tâm sanh khiếp sợ, khi ấy
Diêm Ma ngục tốt lấy dây cột trói, vội vã dắt đi trên đường lớn đầy chông dao
bén nhọn. Mỗi cất bước đi là chẻ cắt đứt thương, có vô số chim la la, chim thứu
hung tợn và những chó dại gầm rú ăn thịt. Ở tại địa ngục chịu cảnh cực khổ kia,
trong đường đi lớn đầy dao nhọn bén, lại còn có những cây gai nhọn dài đến mười
sáu ngón tay, mỗi bước có năm trăm mũi dao nhọn đâm vào bàn chân, đau đớn khóc
than kêu gào thảm thiết mà nói rằng: Những hữu tình chúng tôi đều ưa tạo tội
nghiệp, nay phải chịu đại khổ, tôi nay biết làm thế nào? Khi ấy Diêm Ma ngục
tốt bảo rằng: Ngươi từ xưa đến nay chưa từng đem cơm cúng dường cho các bậc Sa
Môn, cũng chưa từng nghe những tiếng pháp âm thâm diệu hòa nhã, chưa từng đi
nhiễu tháp tượng Phật. Khi ấy các tội nhơn bảo Diêm Ma ngục tốt rằng: Tôi là
tội chướng đối với Phật, Pháp, Tăng, không cung kính tín hiểu mà thường xa lìa.
Ngục tốt bảo rằng: Chính ngươi đã tự tạo các ác nghiệp, nay phải chịu khổ báo, ngục
tốt đem các tội nhơn ấy đến chỗ vua Diêm Ma, đến rồi đứng trước mặt. Khi ấy vua
Diêm Ma nói rằng: Ngươi đi đến ở nơi chỗ nghiệp báo. Khi ấy Diêm Ma ngục tốt
lãnh dắt tội nhân bỏ vào đại địa ngục Hắc Thằng, đến rồi các tội nhơn ấy bị ném
bỏ vào trong địa ngục, đã ném vào rồi, mỗi một tội nhơn đều bị trăm vết thương,
thân thể vị dùi cắt mạng đều không chết. Lại bị hai trăm vết thương lớn, thân
thể đều bị dùi cắt mạng cũng không chết. Lại có ba trăm vết thương lớn, đồng
thời dùi cắt thân mạng kia cũng không chết, mạng vẫn còn sống. Khi ấy đem ném
vào hầm lửa lớn mạng cũng không chết. Lúc ấy lại lấy cục sắt nóng nhét vào
trong miệng tội nhơn bắt phải nhai nuốt, môi răng lưỡi nứu, cổ và yết hầu đều
bị cháy nát, cả tim gan ruột bụng cũng đều bị nướng, khắp thân cháy hoại như
rang khô. Quán Tự Tại dạy Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Khi chịu những cái khổ đó
không một ai thay nhau cứu được, ngươi nên biết vậy. Ta nay vì ngươi nói pháp
đó, các ngươi phải đem thân tự mình làm phước. Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại bảo Ðại
Lực A Tô La Vương rằng: Ta nay muốn đến rừng cây Kỳ Ðà, ngày nay ở tại đó đại
chúng đang nhóm hội.
Khi ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phóng vô số sắc hào quang sáng: Hào quang sắc
xanh, hào quang sắc vàng, hào quang màu hồng, hào quang màu trắng, hào quang
màu pha lê, hào quang màu sắc sáng màu vàng kim … Những hào quang đó chiếu đến
trước đức Tỳ Xá Phù Như Lai. Bấy giờ trời, rồng, dược xoa, la sát bà, Khẩn Na
La, Ma Hộ La nga và các người cùng thảy đều nhóm hội. Lại có vô số đại Bồ Tát
cũng đến nhóm hội. Trong chúng ấy có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng từ chỗ
ngồi đứng dậy sửa y áo trịch vai bên hữu, gối hữu sát đất, chấp tay cung kính
hướng về đức Thế Tôn mà bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Hào quang sáng này là từ
đâu đến? Phật dạy: thiện nam tử! Hào quang sáng ấy là của Ngài Quán Tự Tại Bồ
Tát ở trong cung Ðại Lực A Tô La Vương phóng ra đến đây. Bấy giờ Ngài Hư Không
Tạng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: con nay làm cách nào để có thể thấy Ngài
Quán Tự Tại kia? Phật bảo: Thiện nam tử! Bồ Tát kia Ngài sẽ đến đây.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát khi ra khỏi vương cung Ðại Lực A Tô La, vườn cây Kỳ Ðà
bỗng nhiên hiện cây Thiên Diệu Hoa, cây Thiên Kiếp Ba, lại có vô số chư Thiên
đẹp đẽ sắc tướng trang nghiêm, trên cây treo trăm thứ chơn châu chuỗi ngọc anh
lạc, các thứ Kiều Thi Ca y rất đẹp và các thứ y phục khác. Cây nhánh đều là sắc
thẫm hồng, vàng bạc thì làm lá. Lại có vô số cây hương thơm vi diệu và những
cây hoa nhiệm mầu, vô số ao báu trong ao báu ấy có trăm ngàn muôn sắc diệu hoa
xen nhau tỏa khắp mùi hương. Khi cảnh xuất hiện ra những điều như vậy, Ngài Hư
Không Tạng bồ tát bạch đức Thế Tôn rằng: Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nay ở đâu mà
chưa thấy đến?
Phật dạy: Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại từ vương cung Ðại Lực A Tô La ra rồi,
lại có một chỗ gọi là Hắc Ám, không người năng đến. Thiện nam tử! Chỗ Hắc Ám
kia ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu thấu, có như ý bảo gọi là tùy
nguyện, ở trong đó thường khi pháp ra ánh sáng chiếu soi, nơi ấy có vô số trăm
ngàn Dược Xoa an trú. Khi thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát đi vào, lòng chúng quá
vui mừng nhảy nhót hớn hở, đến chiêm ngưỡng nghinh đón Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát,
đầu mặt lễ sát chân mà thưa hỏi rằng: Bồ Tát nay vào đây không mệt nhọc ư? Lâu
nay không thấy đến chỗ Hắc Ám này? Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Ta vì cứu độ
các hữu tình nên đến đây. Bây giờ chúng Dược Xoa, La Sát đem tòa sư tử Thiên
Kim Bảo mà thỉnh Ngài an tọa. Bồ Tát liền vì Dược Xoa, La Sát mà thuyết pháp:
Các ngươi nên lắng nghe! Có kinh Ðại Thừa tên Trang Nghiêm Bảo Vương. Nếu có
người được nghe một bài kệ bốn câu mà hay thọ trì đọc tụng, giải nói nghĩa lý,
tâm thường suy nghĩ sẽ được phước đức không có hạn lượng. Thiện nam tử! Vi trần
đã có, ta có thể đếm số lượng được. Thiện nam tử! Nếu có người đối với kinh Ðại
Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này có thể thọ trì một bài kệ bốn câu thì phước đức
kia ta không thể đếm số lượng. Như nước biển lớn, ta có thể đếm từng giọt một.
Ðối với kinh này mà thọ trì một bài kệ bốn câu, phước đức ấy ta không thể tính
số lượng được. Giả sử mười hai Căng già ha sa số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác,
trải qua mười kiếp đều ở một chỗ, thường lấy y phục, ngọa cụ, thuốc thang, đồ
ăn uống và các món cần dùng khác dâng cúng chư Phật, cũng không thể nói hết số
lượng phước đức kia được. Chẳng những chỉ mình ta ở chỗ Hắc Ám mà nói không thể
hết. Thiện nam tử! Lại nữa, người trong bốn châu lớn mỗi ngươì tự mình xây dựng
nhà cửa, tạo lập tịnh xá, trong đó lấy toàn vàng báu cõi trời tạo dựng ngàn
tháp nhiều tầng (Suất Ðổ Ba), trong một ngày hết thảy thành tựu các công đức
cúng dường, không bằng đối với kinh này mà thọ trì đọc tụng một bài kệ bốn câu.
Thiện nam tử! Như năm sông lớn dẫn nước về đại hải, những dòng nước như thể
không có cùng tận. Nếu có người hay thọ trì kinh Ðại Thừa này bốn câu kệ thì
phước đức thu được cũng bất tận vậy.
Bấy giờ Dược Xoa, La sát bạch Ngài Quán Tự Tại rằng: Nếu có hữu tình mà hay
biên chép kinh Ðại Thừa này thì phước đức kia thế nào? Thiện nam tử! Phước đức
ấy vô cùng vô tận. Nếu có người hay biên chép kinh này, cùng với người biên
chép tám vạn bốn ngàn pháp tạng phước đức ấy bằng nhau. Người đó sẽ được địa vị
Chuyển luân Thánh vương, thống lãnh bốn đại châu oai đức tự tại, diện mạo đoan
nghiêm, ngàn thiên nữ vây quanh hầu hạ, tất cả kẻ địch tự nhiên thần phục. Nếu
có người chỉ thường niệm danh hiệu kinh này, ngươì đó mau được giải thoát khổ
báo luân hồi, xa lìa già chết, ưu bi khổ não. Người đó sau khi sanh nơi nào
cũng nhớ được túc mạng đời trước, thân thường có mùi thơm ngưu đầu chiên đàn,
trong miệng thường tỏa ra mùi thơm hoa sen xanh, thân tướng viên mãn, đầy đủ
đại thế lực.
Khi thuyết pháp rồi, các Dược xoa, La sát có kẻ chứng được Thánh quả Dự lưu.
Trong đó hoặc có kẻ đắc quả Nhất lai mà nói lên lời như thế này: Cầu xin Bồ Tát
ở lại chỗ này chớ đi nơi khác. Con nay ở chỗ Hắc Ám này, lấy vàng báu tạo chỗ
kinh hành. Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát dạy rằng: Ta vì cứu độ vô số hữu
tình khiến được đạo Bồ đề cho nên muốn đi nơi khác. Lúc ấy các Dược xoa, La sát
đều cúi đầu, lấy tay chống má bồi hồi, lòng càng lưu luyến mà nghĩ như thế này:
Nay Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bỏ đây mà đi, sau này ai vì chúng ta nói pháp
vi diệu.
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ở đây ra đi, các Dược xoa, La sát đều đi theo mà
đưa tiễn. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo rằng: Các ngươi đưa đi xa rồi nên trở
về chỗ. Các Dược xoa, La sát đầu mặt sát đất đảnh lễ bên chân Ngài Quán Tự Tại
rồi mới trở về chỗ cũ.
Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát cũng như ánh lửa xẹt lên hư không, đến thẳng
cung trời, đến cung trời Ngài hiện thân là Bà la môn. Trong các thiên chúng
kia, có một vị Thiên tử gọi là Diệu Nghiêm, mà lại thường chịu khổ báo nghèo
cùng.
Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát hiện thân Bà la môn đến chỗ Thiên tử đó, đến
rồi bảo rằng: Tôi bịnh hoạn đói khát và lại mệt nhọc. Lúc ấy Thiên tử khóc than
mà bảo Bà la môn rằng: Tôi nay nghèo thiếu không có vật chi để dâng. Bà la môn
nói tôi rất cần xin đem biếu tôi chút ít phần. Thiên tử lúc ấy gắng gượng vào
cung tìm tòi coi có vật chi, thoạt tiên thấy các đồ đựng báu lớn, lại có các
thứ quý báu khác đựng đầy trong đó. Lại có đồ quý trong ấy đựng đầy thức ăn
uống thượng vị. Lại có thượng diệu y phục để trang nghiêm nơi thân đầy khắp
trong cung. Lúc đó Thiên tử lòng toan suy nghĩ: Bà la môn ngoài cửa phải là
người không thể nghĩ bàn, khiến tôi được phước thù thắng phi thường, phải mời
vị đại Bà la môn kia vào trong cung điện. Vua đem những đồ quý báu và các thức
ăn uống cao lương mỹ vị cúng dường. Thọ lãnh đồ cúng dường rồi vị Bà la môn
chúc vua an vui trường thọ.
Bấy giờ Thiên tử bạch Bà la môn rằng: Hiền giả từ phương nào đến đây? Bà la môn
nói: Tôi từ trong đại tịnh xá rừng cây Kỳ Ðà mà đến đây. Thiên tử hỏi rằng: Chỗ
đó thế nào? Bà la môn bảo: Tịnh xá ở trong rừng cây Kỳ Ðà, nơi ấy thanh tịnh,
xuất hiện ma ni báu trời và cây Kiếp Thọ trang nghiêm. Lại hiện ra các thứ ma
ni quý báu khác lòng rất ưa thích. Còn hiện ra các thứ ao báu. Lại có vô số các
vị đại chúng giới đức oai nghiêm đầy đủ đại trí tuệ, cùng xuất hiện trong đó. Ở
đó có Ðức Phật hiệu Tỳ Xá Phù Như Lai. Nơi ấy là chỗ Thánh Thiên an trụ, có
việc biến hóa xuất hiện như thế. Bấy giờ Thiên tử bạch hiền giả rằng: Thế nào
Ngài đại Bà la môn nên nói thật Ngài là trời hay là người? Hiền giả! Làm sao
lại xuất hiện các việc ấy? Bà la môn nói: Tôi chẳng phải trời chẳng phải ngươì.
Tôi là Bồ Tát vì muốn cứu độ tất cả hữu tình, thấy được đại Bồ Tát đạo. Thiên tử
nghe rồi liền lấy Thiên diệu mão báu, vòng tay ngọc quý trang nghiêm đem dâng
cúng dường, nói kệ khen rằng:
Con gặp được công đức, xa lìa các tội lỗi,
Như nay trồng ruộng tốt, hiện chắc được quả báo.
Khi Thiên tử nói kệ rồi, vị Bà la môn kia việc hóa độ đã xong mà liền ra khỏi
Thiên cung. Liền khi ấy qua nước Sư Tử. Ðến nơi đứng trước mặt các nữ La sát,
hiện thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm lạ kỳ. Các La sát nữ thấy vẻ đẹp ấy khởi
lên dục tâm, đem lòng hâm mộ, bước đến gần mà bảo rằng: Ông có thể làm chồng
tôi, tôi là gái trẻ đẹp, chưa từng sính đôi, mong được làm chồng tôi, nay đã
đến đây chớ đi nơi khác, như người vô chủ mà lại được chủ, nhà nhà tối gặp đèn
sáng, tôi này giàu có kho lẫm chứa đầy đồ ăn, thức uống, y phục và có vườn đầy
trái ngon ngọt, có ao tắm trong mát vừa lòng. Vị Bà la môn bảo bọn nữ La sát
rằng: Các ngươi nên lắng nghe ta nói. La sát nữ thưa: Xin nghe lời chỉ dạy. Bà
la môn bảo: Ta nay vì các ngươi nói pháp Bát Thánh Ðạo và nói pháp Tứ Thánh Ðế
… Bây giờ bọn nữ La sát nghe pháp rồi, đều được chứng Thánh quả, có người được
quả Dự lưu, có người được quả Nhất lai, không còn khổ tham sân si, không khởi
ác tâm, không ý giết hại sinh mạng, lòng mến chánh pháp , vui trọn nơi giới.
Bọn La sát nói: Chúng tôi từ nay trở đi không dám giết hại, như người Nam Thiệm
Bộ châu giữ gìn giới luật, sống đời trong sạch, ăn uống thanh tịnh. Chúng tôi
từ nay nguyện sống cuộc đời như vậy. Thế là bọn nữ La sát không còn tạo nghiệp ác
nữa và giữ giới thanh tịnh.
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ra khỏi nước Sư Tử, lại qua đại thành Ba La Nại.
Chỗ ấy xấu xa nhơ nhớp, có vô số trăm ngàn vạn loại sâu giòi chen sống nơi ấy.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát vì muốn cứu độ các hữu tình kia nên hiện ra con ong bay
đến miệng phát ra tiếng: “NẴNG MỒ MỘT ÐÀ DÔ (Nam Mô Phật Ðà Da), các loài
trùng nghe tiếng ấy, cùng nhau lên tiếng như thế. Do sức oai lực ấy, loài sâu
trùng kia, thân kiến tuy chấp như núi cao và đầy các tùy hoặc phiền não, trí
Kim Cang xử đều phá hoại tất cả, liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều
làm Bồ Tát đồng danh Diệu Hương Khẩu.
Ở đó Ngài cứu độ các loài hữu tình kia rồi, Ngài Quán Tự Tại liền ra khỏi thành
Ba La Nại, qua đến nước Ma Dà Ðà. Khi ấy trong nước gặp trời nắng hạn hơn hai
mươi năm. Ngài thấy dân chúng và các hữu tình đói khát khổ não, đều ăn thịt lẫn
nhau. Lúc ấy Bồ Tát Quán Tự Tại suy nghĩ: “Lấy phương pháp gì để cứu hữu tình
này?”. Bây giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát giáng xuống những trận mưa, nước mưa
thấm ướt khắp hết những nơi khô khan. Sau tiếp mưa rơi đầy các thứ đồ đựng,
nước trong mỗi đồ đựng biến thành những món ăn thức uống ngon ngọt, các người
kia được ăn uống no đủ.
Khi ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát lại giáng xuống những trận mưa hạt giống như
lúa, mè, đậu, bắp cùng các thứ khác cần dùng. Những người nơi đó thọ dụng tùy ý
đầy đủ. Bây giờ tất cả nhân dân trong nước Ma Dà Ðà lấy làm kinh ngạc chưa từng
có. Dân chúng nhóm hội một chỗ, đã khi đang nhóm họp các người đồng nói lên
rằng: Oai lực của trời nay vì sao lại đến như thế? Trong đám dân chúng ấy có
một cụ già lưng khòm, tay chống gậy, người này sống lâu vô số trăm ngàn tuổi,
bảo các người rằng: Chẳng phải oai lực trời đâu! Nay đã hiện ra thế này, chắc
là oai thần biến hiện của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Các người hỏi rằng: Ngài
Quán Tự Tại Bồ Tát kia làm thế nào mà xuất hiện ra điềm tốt ấy? Ông già nói:
“Ngài Thánh Quán Tự Tại dùng oai thần lực biến tối tăm thành đèn sáng, biến
trời nóng bức thành bóng che mát, nơi nào thiếu khát hiện ra dòng sông, nơi nào
sợ sệt liền ban vô úy, bịnh khổ bức bách hiện thầy thuốc hay, hữu tình thọ khổ
biến làm cha mẹ, khiến chúng sanh trong A Tỳ địa ngục thấy được đạo Niết Bàn,
hay khiến tất cả hữu tình trong thế gian đều được công đức, lợi ích an vui. Nếu
có người niệm danh hiệu Ngài Quán Tự Tại thì người đó tương lai xa lìa tất cả
khổ não luân hồi. Những ngươì nghe rồi đều nói lành thay! Nếu có người ở trước
tượng Ngài Quán Tự Tại mà kiến lập đàn vuông (Mạn noa la), thường dùng hương
hoa cúng dường Bồ Tát Quán Tự Tại, người đó sẽ được Chuyển luân Thánh vương, có
bảy báu đầy đủ như: Kim luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ kho
tàng báu, chủ binh báu. Ðược bảy báu như thế. Nếu có người đem dâng một cành
hoa cúng dường Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thì thân ngươì đó tiết ra mùi thơm, sanh
vào nơi nào thân tướng cũng đầy đủ.
Ông già ấy sau khi kể công đức thần lực của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rồi thì
cùng với các người khác trở về chỗ ở.
Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát bay lên hư không suy nghĩ: “Ta lâu không thấy
đức Tỳ Xá Phù Như Lai, nay trở về rừng cây Kỳ Ðà nơi trong tịnh xá để thấy đức
Thế Tôn”. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát liền trở về tịnh xá, thấy có vô số trăm ngàn
vạn trời, rồng,
Dược xoa, Ngạn đạt phạ, A Tô la, Nghiệt lỗ noa, Khẩn Na La, Ma hộ la nga, người
và chẳng phải người. Lại có vô số trăm ngàn vạn Bồ Tát đều đang nhóm hội. Lúc
ấy Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Vị đến đây là Bồ
Tát nào? Phật dạy: Thiện nam tử! Ðó là Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Khi đó Ngài
Hư Không Tạng Bồ Tát ngồi lặng thinh. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nhiễu quanh Phật
ba vòng rồi trở về bên trái mà ngồi. Bấy giờ đức Thế Tôn an ủi mà nói rằng: Ông
không mệt nhọc ư? Thiện nam tử! Ông ở các nơi làm việc giáo hoá thế nào? Ngài
Quán Tự Tại liền kể hết những việc giáo hoá đã qua, tôi đã cứu độ hữu tình như
vậy. Như vậy! Lúc ấy Hư Không Tạng nghe rồi tam ngạc nhiên chưa từng có: Nay
tôi thấy Quán Tự Tại còn làm Bồ Tát mà có thể cứu độ những quốc độ hữu tình như
thế, những hữu tình trong những quốc độ ấy nay đã làm Bồ Tát được thấy Như Lai
như thế. Khi đó Hư Không Tạng Bồ Tát đứng trước Ngài Quán Tự Tại mà thưa hỏi
Quán Tự Tại rằng: Hóa độ như vậy không mệt nhọc ư? Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Tôi
không mệt nhọc, thưa hỏi rồi yên lặng mà ngồi.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn gọi thiện nam tử rằng: “Các ông hãy lắng nghe, tôi nay
vì ông nói sáu pháp Ba la mật đa. Thiện nam tử! Nếu làm Bồ Tát, trướcc phải tu
hạnh bố thí Ba la mật đa, sau tu các hạnh Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền
Ðịnh, Trí tuệ Ba la mật đa, tất cả được viên mãn như vậy. Nói pháp xong đức Thế
Tôn yên lặng mà an trụ. Bấy giờ trong chúng hội ai nấy đều trở về chỗ cũ, các
chúng Bồ Tát cũng trở về nơi các cõi Phật Sát.
Nam Mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
Phật nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.
HẾT QUYỂN 2
KINH PHẬT THỪA
TRANG NGHIÊM
BẢO
VƯƠNG KINH
QUYỂN 3
NAM MÔ PHẬT THỪA TRANG NGHIÊM
BẢO
VƯƠNG KINH
HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Những việc xưa kia của
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, con đã nghe Phật nói. Vậy Bồ Tát đó có những Tam
ma địa gì? Kính mong đức Thế Tôn vì con tuyên nói.
Phật dạy: Này thiện nam tử! Những môn Tam ma địa ấy là: Hữu tướng tam ma địa,
Vô tướng tam ma địa, Kim Cang sanh tam ma địa, Nhật quang minh tam ma địa,
Quảng bát tam ma địa, Trang nghiêm tam ma địa, Tinh kỳ tam ma địa, Tát trang
nghiêm tam ma địa, Trang nghiêm vương tam ma địa, Chiếu thập phương tam ma địa,
Diệu nhãn tam ma địa, Trì pháp tam ma địa, Diệu tối thắng tam ma địa, Thí ái
tam ma địa, Kim Cang phiên tam ma địa, Quán sát nhứt thiết thế giới tam ma địa,
Lạc thiện thệ tam ma địa, Thần thông nghiệp tam ma địa, Phật đảnh luân tam ma
địa, Diệu nhãn nguyệt tam ma địa, Liễu đa quyến thuộc tam ma địa, Thiên nhãn
tam ma địa, Minh chiếu kiếp tam ma địa, Biến hiện kiến tam ma địa, Liên hoa
thượng tam ma địa, Thượng vương tam ma địa, Thanh tịnh a tỳ tam ma địa, Tín
tướng tam ma địa, Thiên luân tam ma địa, Sái cam lồ tam ma địa, Luân quang minh
tam ma địa, Hải thâm tam ma địa, Ða cung tam ma địa, Ca lăng tần già thinh tam
ma địa, Thanh liên hoa hương tam ma địa, Vận tải tam ma địa, Kim Cang khải tam
ma địa, Trừ phiền não tam ma địa, Sư tử bộ tam ma địa, Vô thượng tam ma địa,
Hàng phục tam ma địa, Diệu nguyệt tam ma địa, Quang diệu tam ma địa, Bách quang
minh tam ma địa, Quang xí thạnh tam ma địa, Quang minh nghiệp tam ma địa, Diệu
tướng tam ma địa, Khuyến a tô tam ma địa, Cung điện tam ma địa, Hiện viên tịch
tam ma địa, Ðại đăng minh tam ma địa, Ðăng minh vương tam ma địa, Cứu luân hồi
tam ma địa, Văn tự dụng tam ma địa, Thiên hiện tiền tam ma địa, Tương ưng
nghiệp tam ma địa, Kiến chơn như tam ma địa, Ðiển quang tam ma địa, Long nghiêm
tam ma địa, Sư tử tần thân tam ma địa, Ta để diện tam ma địa, Vãng phục tam ma
địa, Giác ngộ biến tam ma địa, Niệm căn tăng trưởng tam ma địa, Vô tướng giải
thoát tam ma địa, Tối thắng tam ma địa, Khai đạo tam ma địa.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát chẳng những chỉ có tam ma địa ấy (tam
muội, chánh định) mà còn ở mỗi một lỗ chân lông đầy đủ trăm ngàn vạn tam ma
địa. Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát còn ở địa vị Bồ Tát mà công đức
như thế, cho đến chư Phật Như Lai phải khen ngợi tán thán công đức chưa từng có
vậy.
Thiện nam tử! Khi xưa tôi (Phật) còn làm Bồ Tát, cùng với năm trăm người lái
buôn, muốn vào nước Sư tử, đem theo các xe cộ, lạc đà, trâu …để tìm kiếm của
báu. Tôi dẫn đầu đi đến nước đó, phải đi qua các làng xóm tụ lạc, các thành ấp,
khi đến bờ biển, tôi cùng các lái buôn đều lên một chiếc thuyền lớn để đi, lúc
bấy giờ đã vào thuyền. Tôi hỏi chủ thuyền: Ông xem chiều gió kia thổi từ đâu
đến, thổi đến nước nào? Hay là đến bảo châu, hay nước Xà Bà, nước La Sát ư? Chủ
thuyền ấy xem chiều giới rồi nói thế này: Gió này nên hướng về nước Sư tử mà
đi. Thuyền trương buồm nương gió đến nước Sư tử, ở trong nước đó có 500 nữ La
sát. Bỗng nhiên biến gió thổi mạnh, biển nổi sóng cuồn cuộn thuyền bị đập vỡ.
Khi ấy các người lái buôn hụp lặn trong nước, thân kia trôi giạt vào bờ và lên
được trên bờ. Năm trăm nữ La sát ấy thấy các người lái buôn, ai nấy đều lòng
rung động, kêu réo hét lên những tiếng dữ tợn rồi hiện thành những cô gái trẻ
đẹp, đến chỗ lái buôn. Họ đem y phục cho các lái buôn, được mặc đồ rồi, tự mình
vắt những đồ ướt khiến phơi mau khô. Rời khỏi bờ biển, chúng tôi đến dưới cây
Chiêm Ba Ca để nghỉ ngơi. Nghỉ xong cùng nhau nói rằng: Chúng ta nay đây biết
làm thế nào? Sanh nhai nghề gì? Chẳng còn phương kế tính liệu làm sao? Nói rồi
lặng thinh.
Bấy giờ bọn nữ La sát đến trước những lái buôn nói như thế này: Tôi không có
chồng, nên làm chồng mà ở với tôi. Ở đây tôi có đồ ăn, thức uống, y phục, kho
tàng, vườn cây, ao tắm. Bấy giờ các nữ La sát, mỗi người đem một người lái buôn
về chỗ mình ở. Ở đó trong hàng nữ La sát có một người làm đại chủ tể tên là Ra
để Ca lãm. Nữ la sát ấy đem tôi về ở nhà nó. La sát lấy các món ăn cao lương mỹ
vị cung cấp cho tôi thật đầy đủ. Tôi được sống sung sướng không khác gì ở nhân
gian. Ăn ngủ ở đó trải qua thời gian hai ba cho đến bảy tuần lễ. Thoạt nhiên
tôi thấy Ra để Ca lãm vui cười mừng rỡ.
Bấy giờ lòng tôi sanh nghi lấy làm lạ là chưa bao giờ thấy nữ La sát ấy cười
lên như thế. Tôi liền hỏi: Cô nay cớ chi mà vui cười như vậy. Nữ La sát nói:
Nước Sư Tử này là chỗ nữ La sát ở, tôi sợ tổn hại tánh mạng ông. Tôi lại hỏi:
Làm sao mà cô biết? Nữ La sát nói: Chớ qua đường hướng nam mà đi. Vì sao vậy?
Vì ở đó có thành sắt trên dưới bao quanh không có cửa ngõ, trong đó vô số người
lái buôn phần nhiều đã bị ăn thịt chỉ còn xương trắng, nay trong đó có kẻ còn
người mất, không tin lòng nhau, thì ông hãy theo đường này đến đó, tự nhiên sẽ
tin tôi. Khi ấy tôi chờ đến nửa đêm thì La sát ngủ mê, tôi là Bồ Tát cầm nguyệt
quang kiếm soi đờng qua phía nam, đi chung quanh thành sắt mà xem, thấy không
có cửa lớn, không có cửa nhỏ, bên thành sắt có một cây Chiêm Ba Ca. Liền leo
lên cây, tôi lớn tiếng kêu hỏi thì các người lái buôn trong thành bảo tôi rằng:
Hiền đại Thương Chủ! Hãy trở lại đi, biết không? Chúng tôi bị bọn nữ La sát đem
nhốt trong thành sắt này, cứ mỗi ngày ăn thịt trăm người.”
Khi nghe các bạn nói những việc đã xảy ra, tôi liền trụt xuống cây Chiêm Ba La,
lui y đường cũ phía nam mà cấp tốc trở về chỗ nữ La sát. Lúc ấy La sát bảo tôi
rằng: Hiền đại thương chủ! Thành sắt đã nói, trở về thấy chăng? Ông nên nói
thật. Tôi nói: Ðã thấy. Tôi hỏi: Làm cách nào cho tôi được ra khỏi nơi này? La
sát bảo với tôi rằng: Nay có một cách hay có thể khiến ông yên ổn, ra khỏi nước
Sư tử này mà trở về Nam Thiệm Bộ châu. Tôi thấy nói lời phải ấy tôi lại hỏi
tiếp cô ta chỉ cho tôi đường nào ra khỏi nước này. Khi ấy Ra để Ca lãm bảo với
tôi rằng: Có Thánh Mã Vương hay cứu độ tất cả hữu tình. Tôi liền tìm qua chỗ
Thánh Mã Vương, Ngài đang lăn mình nơi đất cát vàng, ăn bạch dược thảo, ăn rồi
rung mình đứng dậy lông thân quất ngược, làm như thế rồi mà nói lên rằng: Người
nào muốn qua bờ bên kia. Ba lần kêu hỏi: Nếu người nào muốn đi hãy tự nói lên.
Tôi thưa với Thánh Mã Vương rằng: Tôi nay muốn qua bên kia, nói xong tôi vội
trở về nhà nữ La sát để cùng ngủ nghỉ. La sát ngủ dậy lòng sanh hối hận những
việc đã qua mà hỏi tôi rằng: Thương chủ! Thân ông thế nào? Có lạnh lắm chăng?
Hỏi vậy tôi biết ý La sát không muốn cho tôi đi. Tôi liền lấy cớ bảo cô ta
rằng: Tôi mới vừa ra ngoài thành, đại tiểu tiện mà trở vào cho nên bị lạnh. La
sát bảo tôi nên đi ngủ sớm. Ðến mặt trời mọc tôi mới dậy. Tôi kêu các bạn lái
buôn cùng đi rằng: Nay nên ra khỏi thành này mà du ngoạn. Khi ấy các bạn lái
buôn tôi đều ra khỏi thành, đến ở một chỗ mà nghỉ, rồi cùng nhau bàn luận: Nay
trong chúng ta vợ người nào thật thương chồng? Thấy những gì và làm những việc
gì?
Lúc ấy trong chúng tôi có người nói rằng: Họ lấy những đồ ăn cao lương mỹ vị
cung cấp cho tôi.
Người khác lại bảo: Họ lấy các thứ y phục đẹp đẽ cho tôi, hoặc nói lấy mão
trời, vòng ngọc, đeo tai, y phục cho tôi.
Hoặc: Tôi đã không được vừa lòng.
Kẻ nữa lại bảo: Họ lấy các món long xạ hương, chiên đàn hương cho tôi. Khi các
bạn lái buôn tôi nói xong, tôi bảo: Các bạn khó giải thoát. Bởi vì sao? Vì
thương yêu nữ La sát vậy. Những người lái buôn nghe lòng nghĩ lo sợ mà hỏi
rằng: Ðại thương chủ! Thật như vậy ư?
Tôi mới bảo rằng: Ðây là nước Sư Tử, chỗ nữ La sát ở chứ chẳng phải người vậy.
Ðây thật là lời nữ La sát nói với tôi: Chỉ có Phật Pháp Tăng mới biết rõ đây là
nữ La sát. Bấy giờ các lái buôn nghe rồi tôi liền bảo họ rằng: Nước Sư Tử này
có Thánh Mã vương hay cứu tất cả hữu tình. Ngài lăn mình nơi đất cát vàng, ăn
đại bạch dược thảo, ăn rồi rùng mình đứng dậy lông thân quật ngược mà ba lần
kêu hỏi lên rằng: Ai muốn qua bờ bên kia? Tôi thưa Ngài Mã Vương rằng: Tôi nay
muốn qua bờ bên kia. Bấy giờ các lái buôn lại nói với tôi rằng: Ngày nào đi?
Tôi bảo các người ấy sau ba ngày quyết định sẽ đi. Các người hãy nên sắm đủ
lương thực. Nói xong sau đó tôi và các bạn lái buôn cùng trở vào thành. Ai nấy
đều trở về nhà nữ La sát. La sát thấy tôi về đến niềm nở thăm hỏi: Ông có mệt
nhọc chăng? Tôi hỏi cô La sát: Tôi chưa từng thấy ý người vui vẻ, vườn cây ao
tắm là có thật ư? Lúc ấy La sát bảo với tôi rằng: Ðại thương chủ! Nước Sư tử
này có các thứ hợp ý vừa lòng: Vườn cây, ao tắm. Tôi bảo cô ta rằng: Hãy sắm đủ
lương thực cho tôi, tôi muốn sau ba ngày đi dạo xem vườn cây, ao tắm, xem những
danh hoa đẹp đẽ kia, tôi sẽ hái các thứ hoa ấy mà đem về nhà. Cô La sát bảo với
tôi rằng: Ðại thương chủ! Tôi sẽ sắm đủ lương thực. Lúc ấy sợ cô La sát biết
phương kế chắc sẽ giết tôi, tôi nghĩ như vậy mà làm thinh. Cô La sát lấy đồ ăn
thức uống rất ngon cho tôi ăn, ăn rồi tôi than thở. Cô La sát hỏi: Ðại thương
chủ! Cớ chi mà than thở vậy? Tôi bảo cô rằng: Tôi vốn là người Nam Thiệm Bộ
châu, nghĩ nhớ đất cũ. Cô La sát bảo tôi rằng: Ðại thương chủ! Chớ nhớ xứ cũ
làm gì. Nước Sư Tử này có các thứ ăn uống, y phục, kho tàng các điều hợp ý vừa
lòng: Vườn cây, ao tắm, thọ hưởng các thứ khoái lạc. Cớ vì sao lại nhớ Nam
Thiệm Bộ châu kia? Tôi bấy giờ làm thinh mà yên ở đó. Qua ngày ấy rồi, đến ngày
thứ hai, cô La sát sắm đủ các thứ lương thực đồ ăn uống cho tôi. Các thương
nhơn khác cũng đều sắm đủ lương thực. Qua ngày thứ ba khi mặt trời vừa mới hừng
mọc, tôi đem tất cả những người lái buôn đều ra khỏi thành. Ra khỏi thành chúng
tôi cùng bàn: Chúng ta nay nên đi mau, không nên ngó lại nước Sư tử này. Nói
xong tôi cùng chúng bạn tức thời vội vã qua đến chỗ Thánh Mã vương, đến nơi
thấy Thánh Mã vương đang lăn mình ăn cỏ, ăn rồi rùng mình đứng dậy lông thân
quật ngược. Khi ấy nước Sư tử đất đều chấn động, Mã vương ba lần nói rằng: Nay
người nào muốn qua bờ bên kia? Các bạn lái buôn đồng nói lên rằng: Chúng tôi
nay đều muốn qua bờ bên đó. Lúc ấy Thánh Mã vương vươn mình mạnh mẽ nói lời vội
thúc rằng: Các người nên đi trước, chớ ngó lại nước Sư tử! Thánh Mã vương nói
như vậy rồi, bấy giờ tôi thừa cỡi Mã vương đi trước, năm trăm lái buôn đều lên
ngựa theo sau.
Khi ấy trong nước Sư tử các nữ La sát thoạt nghe tin các lái buôn đi, miệng nói
lên những lời thống khổ, liền cấp tốc đuổi theo, theo sau kêu gào, khóc thương
than thở! Các bạn lái buôn tôi nghe tiếng động lòng, quay đầu ngó lại, trong
chốc lát đều rơi xuống nước. Các nữ La sát với thân kia lên thảy đều ăn thịt.
Khi ấy chỉ còn một mình tôi về được Nam Thiệm Bộ Châu, Thánh Mã vương đưa tôi
đến tận bờ biển. Ðến bờ, tôi bước xuống nhiễu quanh Thánh Mã vương ba vòng, rồi
tìm đường mà về chỗ cũ. Ðã về đến nhà, cha mẹ thấy tôi ôm chân tôi mừng rỡ, thương
khóc nước mắt tuôn trào. Cha mẹ trước kia vì thương nhớ tôi khóc than, nên đôi
mắt phải mù lòa, nay tôi về lại sáng tỏ như xưa. Cha mẹ cùng tôi ở chung một
chỗ. Tôi bèn thuật lại đầy đủ những việc đã trải qua cùng bao gian khổ. Cha mẹ
nghe rồi bảo với tôi rằng: con ngày nay được toàn tánh mạng yên ổn mà về, ta
hết sức sung sướng không còn lo buồn nữa, ta không mong con phải cho ta nhiều
của báu, nay chính ta tự biết tuổi già sức yếu cần con gần gũi sớm chiều một
bên, ta sẽ chết, con hãy làm chủ mà tống tang ta. Khi xưa che mẹ đã nói lên
những lời ngọt lành như thế mà an ủi tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi khi ấy làm thân
thương chủ đã chịu những việc khổ sở nguy nan như vậy!
Bấy giờ, Ðức Phật dạy Trừ Cái Chướng Bồ Tát: Thánh Mã vương ấy tức Quán Tự Tại
đại Bồ Tát, trong cơn nguy hiểm, lo sợ ấy đã cứu giúp tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi
nay không thể nói hết số lượng công đức của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Tôi
chỉ vì ông mà lược nói về Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát , trong lỗ chân lông nơi
thân của Ngài đã có công đức. Trừ Cái Chướng! Thân Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, có
lỗ lông vàng kim sắc, trong đó có vô lượng trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Ngạn
Ðạt Phạ. Những Ngạn Ðạt Phạ ấy không còn chịu khổ luân hồi mà hưởng thọ sự tối
thắng khoái lạc, thọ dụng các vật ở cõi trời không cùng tận, không có ác tâm,
không lòng ganh ghét, không tham sân si, thường tu hành Bát Chánh Ðạo, thường
thọ pháp lạc.
Trừ Cái Chướng! Nơi trong lỗ chân lông vàng ấy, lại phóng ra hào quang như ý
bảo châu. Tùy theo chúng Ngạn Ðạt Phạ kia, nghĩ tưởng điều cần dùng gì thì tùy
ý biến hiện đầy đủ, ở trong lỗ chân lông vàng ấy, lại có lỗ chân lông đen, ở
trong đó có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa các vị Tiên nhơn đủ thần
thông, trong đó có kẻ đủ một thần thông, hoặc có kẻ đủ hai, ba, bốn, năm thần thông;
cũng có kẻ đủ sáu món thần thông. Ở trong lỗ chân lông ấy, lại hiện đất bạc,
vàng ròng làm núi, chót núi cao làm bằng bạc trắng, ba mươi bảy thứ ưa thích,
hoa sen báu trang nghiêm núi ấy, ở trong núi kia có tám vạn bốn ngàn chúng Thần
Tiên. Những Tiên chúng đó xuất hiện ra cây Kiếp Thọ, thân câu thì màu hồng
thẫm, màu huỳnh kim, cành lá thì làm bằng bạc trắng, phóng ra ánh sáng quý báu.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông hiện ra bốn ao báu; nước ao có đầy đủ tám món công
đức. Có những hoa hương thơm mầu nhiệm trổ khắp trong ao, hai bên bờ ao có cây
Thiên Diệu Hương, cây Chiên Ðàn Hương, lại có cây Kiếp Thọ trang nghiêm, trên
treo mão trời, dây ngọc vòng tai, có những chuỗi ngọc anh lạc đẹp đẽ trang sức
cho cây. Trên cây treo các linh báu, có các diệu y Kiều Thi Ca phục sức. Ở dưới
mỗi cây Kiếp Thọ có một trăm Ngạn Ðạt Phạ vương thường tấu các khúc âm nhạc êm
dịu, lại có các bầy nai, chim, các giống linh cầm. Nghe âm nhạc rồi thảy đều
suy nghĩ: Các loài hữu tình phần nhiều chịu khổ luân hồi. Vì sao người Nam
Thiệm Bộ Châu phải chịu cảnh sanh, già, bịnh, chết. Thương nhau mà phải xa lìa,
chịu các khổ như thế. Các loài cầm thú chim nai này nơi đây hết thảy đều nghĩ
tưởng đến kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương như thế thì liền ở đó có các món
ăn uống cao lương mỹ vị của cõi trời, các hương thơm vi diệu cõi trời, các y
phục mầu nhiệm của cõi trời. Nghĩ đến thì đầy đủ như ý.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay
nghe việc đó thật là hy hữu! Phật dạy: Này thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Trừ
Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn: Như vậy, loài hữu tình tâm chỉ nghĩ đến
danh hiệu kinh này mà còn được lợi ích an vui như thế, huống nữa nếu lại có
người nghe được kinh này mà hay biên chép truyền bá, thọ trì, đọc tụng, cúng
dường, cung kính. Những người như vậy thường được an vui. Hoặc lại có người đối
với kinh này viết một chữ, thì người đó đời đương lai không còn chịu khổ luân
hồi, vĩnh viễn không còn trong những nhà hà tiện như: hàng thịt cắt mổ … đã
sanh ra thân thì hoàn toàn không chịu cảnh lưng gù, miệng méo, môi sứt, ghẻ
lác, cùng hết thảy những bịnh tướng không đáng ưa, lại được thân tướng viên
mãn, các căn đầy đủ, có thế lực lớn. Huống thọ trì đọc tụng, chép viết đầy đủ,
cúng dường, cung kính thì người đó thu hoạch công đức nhiều biết là dường nào!
Bấy giờ đức Thế Tôn khen rằng: Lành thay! Lành thay! Trừ Cái Chướng! Ông nay
khéo nói pháp như vậy, nay trong hội này, vô số trăm ngàn vạn Thiên, Long, Dược
Xoa, Ngạn Ðạt Phạ, A Tô La, Nghiệt Lỗ Noa, Khẩn Na La, Ma Hộ La Nga, người và
chẳng phải người. Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca, tất cả các chúng đó đều nghe pháp
ông nói như vậy, nghe rồi đem truyền bá rộng rãi pháp môn do ông đã hỏi. Lúc đó
Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Nay nói diệu pháp
đây, các chúng trời người khởi lòng tin kiên cố. Ðức Thế Tôn khen rằng: Lành
thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ông có thể như thật hỏi lại Ngài Quán Tự Tại, lỗ
chân lông trong thân đã hiện ra công đức như vậy. Trừ Cái Chướng! Ngài lại có
lỗ chân lông trang nghiêm quý báu, trong đó có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na
khố đa Ngạn Ðạt Phạ nữ, diện mạo đoan nghiêm, hình thể đẹp đẽ, các thứ trang
nghiêm như vậy, sắc tướng dường như Thiên nữ. Các chúng kia khổ tham, sân, si
đều không thể xâm hại nơi thân họ, mà cũng không chịu chút phần khổ não nào của
cõi nhơn gian. Nữ Ngạn Ðạt Phạ ấy ở trong ba thời thường niệm danh hiệu Ngài
Quán Tự Tại đại Bồ Tát, thì những kẻ ấy lúc đó đều được tất cả vật cần dùng đầy
đủ.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con muốn vào trong
lỗ chân lông kia để xem những việc đã có.
Phật dạy: Này thiện nam tử! Lỗ chân lông kia không có bờ cõi biên giới, như cõi
hư không, không có chướng ngại. Thiện nam tử! Lỗ chân lông như vậy, không
chướng, không ngại, cũng không xúc não. Trong lỗ chân lông kia, Ngài Phổ Hiền
đại Bồ Tát đi vào trong đó trải qua mười hai năm mà không thấy được bờ cõi biên
giới. Thấy trong mỗi lỗ chân lông có các Phật bộ an trụ. Vậy nên Ngài Phổ Hiền
không thể thấy biên giới gần xa kia được. Còn các Bồ Tát khác làm thế nào mà
được thấy biên giới!? Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế
Tôn! Ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát ở trong lỗ chân lông kia trải qua mười hai năm
không thể thấy cõi biên giới mà các lỗ chân lông lại có trăm ngàn Ðức Phật ở
trong đó. Ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát còn không thể thấy được biên giới thì con
nay làm thế nào mà vào trong ấy ư?
Phật dạy: Này thiện nam tử! Ta cũng không thấy như thế là vi diệu tịch tịnh, là
vô tướng, cho nên hiện ra đại thân có đủ mười một mặt, có trăm ngàn mắt đầy đủ
rộng lớn, được tương ưng với địa vị vắng lặng Niết Bàn. Ðại trí vô đắc, không
có luân hồi, không thấy cứu độ, cũng không chủng tộc, không có trí huệ, cũng
không có nói các pháp như vậy: như hình bóng, như tiếng vang. Thiện nam tử!
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, không thấy không nghe, vì không có tự tánh, cho
đến Như Lai cũng đã không thấy thì ý ông thế nào? Thiện nam tử! Phổ Hiền và hết
thảy các vị Bồ Tát cũng đều đầy đủ như thế không thể nghĩ bàn, nhưng không thể
rõ biết chỗ biến hóa của Quán Tự Tại.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát biến hóa các việc cứu độ vô số trăm
ngàn vạn Câu chi na khố đa hữu tình, khiến được vãng sanh về cõi Cực Lạc thế
giới, thấy Phật Như Lai Vô Lượng Thọ, được nghe pháp yếu, khiến mau thành đạo
bồ đề. Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Không biết
dùng phương tiện gì khiến con được thấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát?
Phật dạy: Này thiện nam tử! Bồ Tát kia chắc sẽ đến Tát Ha thế giới này mà diện
kiến lễ bái cúng dường ta.
Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Có thể biết Ngài
Quán Tự Tại đại Bồ Tát khi nào mới đến nơi đây? Phật dạy: Thiện nam tử! Khi mà
căn cơ hữu tình ở đây thuần thục thì Quán Tự Tại đại Bồ Tát kia Ngài sẽ đến nơi
đấy.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát lấy tay chống má suy nghĩ: Con nay có
tội chướng gì? Thọ mạng tuy dài mà chẳng được lợi ích, không được thấy Ngài
Quán Tự Tại để cung kính lễ bái, cũng như người mù đi giữa đường. Trừ Cái
Chướng Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát
thật khi nào mới đến nơi đây? Ðức Thế Tôn mỉm cười dạy rằng: Ngài Quán Tự Tại
đại Bồ Tát ở đó không có thời gian mà Ngài lại đến đúng thời gian.
Thiện nam tử! Thân của Bồ Tát kia, có những lỗ chân lông tên Sái cam lồ, nơi
trong những lỗ chân lông ấy, có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa trời
người an trụ. Có kẻ chứng Sơ địa, Nhị địa cho đến có kẻ chứng vị Thập địa đại
Bồ Tát. Trừ Cái Chướng! Trong những lỗ lông Sái cam lồ ấy, có sáu mươi núi vàng
bạc quý báu. Mỗi núi kia có sáu vạn Du thiện na, chót cao chín vạn chín ngàn.
Dùng Thiên diệu vàng báu làm trang nghiêm khắp ni, các Bồ Tát còn một đời bổ xứ
làm Phật cũng đều an ở trong ấy. Lại có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa
chúng Ngạn Ðạt Phạ ở trong những lỗ chân lông kia thường hằng tấu các khúc âm
nhạc êm dịu. Trừ Cái Chướng! Trong lỗ chân lông Sái cam lồ, lại có vô số trăm
ngàn vạn Câu chi na khố đa cung điện, dùng Thiên ma ni quý báu nhiệm mầu mà
trang nghiêm khắp nơi. Thấy rồi sanh lòng vui mừng. Lại có các thứ chơn châu
chuỗi ngọc anh lạc chen nhau trang sức. Ở trong mỗi cung điện lại có Bồ Tát nói
các pháp vi diệu, ra khỏi cung điện rồi mỗi mỗi đều đi kinh hành. Ở chỗ kinh
hành có bảy mươi ao báu, nước trong ao có đầy đủ tám món công đức; có các thứ
hoa gọi là hoa Ốt bát la, hoa Bát nạp ma, hoa Cự mẫu na, hoa Bôn noa lợi ca,
hoa Tháo ngạn đà ca, hoa Mạn na la, hoa Ma ha mạn na la, hàm tiếu, ở tròn đầy
đủ trong đó. Nơi đất kinh hành kia lại có cây Kiếp Thọ vừa lòng ưa thích, dùng
vàng bạc cõi trời mà làm cành lá, trên treo các mão trời vòng tai ngọc quý, trang
nghiêm các thứ trân châu báu anh lạc. Các Bồ Tát kia đi kinh hành rồi, nơi ban
đêm phân thời niệm tụng các pháp Ðại Thừa, suy nghĩ chỗ tịch diệt Niết Bàn,
nghĩ sự khổ địa ngục, ngã quỷ, bàng sanh, suy nghĩ như thế rồi, nhập vào Từ tâm
tam muội.
Trừ Cái Chướng! Nơi trong lỗ chân lông kia xuất hiện các Bồ Tát như vậy. Lại có
những lỗ chân lông gọi là Kim Cang Diệu. Trong đó có vô số trăm ngàn vạn chúng
Khẩn Na La, nơi thân trang nghiêm các tràng hoa, các chuỗi ngọc anh lạc, dùng
các dầu thơm vi diệu thoa thân, người thấy vui mừng, hằng thường niệm Phật Pháp
Tăng. Ðược lòng tin bất hoại mà an trụ nơi pháp nhẫn từ, suy nghĩ đạo tịch diệt
Niết Bàn để xa lìa luân hồi. Như vậy! Như vậy! Ðó, thiện nam tử! Chúng Khẩn Na
La kia tâm sanh ưa mến. Trong lỗ chân lông ấy có vô số núi, nơi trong núi đó có
hang Kim Cang báu, hang bằng vàng báu, hang bằng bạc báu, hang pha lê ca báu,
hang sắc hoa sen báu, hang sắc màu xanh báu, có đầy đủ hang bảy báu như thế.
Thiện nam tử! Nơi trong lỗ chân lông kia còn có nhiều sự biến hiện ấy. Trong đó
có vô số cây Kiếp Thọ, vô số cây Chiên Ðàn lớn, các cây ấy tỏa ra hương thơm vi
diệu, vô số ao tắm, trăm ngàn vạn bảo điện cung trời, pha đê ca trang nghiêm
đẹp đẽ, những cung trời bảo điện trang nghiêm rất ưa thích xuất hiện ra như thế,
chúng Khẩn Na La đều an nghỉ trong cung điện ấy. Ðã an nghỉ rồi lại nói pháp vi
diệu gọi là Pháp Bố thí Ba la mật đa và pháp Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn,
Thiền Ðịnh, Trí huệ Ba la mật đa. Nói sáu pháp Ba la mật đa rồi mỗi mỗi đều đi
kinh hành, các đường đi kinh hành nơi đó làm bằng vàng ròng, làm bằng bạc
trắng, chung quanh ở đó có cây Kiếp Thọ, thân bằng vàng ròng thì lá bằng bạc
trắng. Trên đó có các thứ Áo trời, mão báu, vòng tai ngọc quý, linh báu khua
rung, chuỗi ngọc anh lạc, những chỗ kinh hành kia trang nghiêm như thế. Lại có
lầu các, Khẩn Na La nơi ấy kinh hành để suy tưởng các khổ trầm luân; sanh khổ,
già khổ, bịnh khổ, lão khổ, chết khổ, nghèo cùng khốn khổ, khổ thương nhau phải
xa lìa, khổ ghét nhau gặp gỡ, khổ cầu mong không được. Hoặc đọa địa ngục Kim
Châm, địa ngục Hắc Thằng, đại địa ngục Hắc Ê, đại địa ngục Cực Nhiệt, địa ngục
hầm lửa, hoặc đọa vào các Ngã quỷ thú, những hữu tình như thế thọ đại khổ não.
Các Khẩn Na La kia khởi lên lòng suy nghĩ. Như vậy, thiện nam tử! Khẩn Na La
kia ưa suy nghĩ pháp thâm sâu, viên tịch chơn như cảnh giới. Lại nơi ấy thường
niệm danh hiệu Quán Tự Tại đại Bồ Tát, bở do xưng niệm đó mà liền khi bấy giờ
đều được các món cần dùng đầy đủ như ý.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, cho đến danh hiệu cũng khó được gặp
gỡ. Vì sao vậy? Bởi Ngài ban cho tất cả hữu tình như bậc đại cha mẹ, tất cả sợ
sệt của hữu tình Ngài ban cho Thí vô úy. Làm đại thiện hữu khai đạo cho tất cả
hữu tình. Như vậy, thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát có sáu chữ Ðại
Minh Ðà Ra Ni rất khó gặp được. Nếu có người nào hay xưng niệm danh hiệu sẽ
được sanh trong lỗ chân lông kia thì không còn bị trầm luân, khi ra khỏi một lỗ
chân lông rồi lại nhập vào một lỗ chân lông khác, ở đó an trụ cho đến khi chứng
địa vị Viên tịch (Niết Bàn).
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Nay sáu chữ
Ðại Minh Ðà Ra Ni này làm thế nào mà được?
Phật dạy: Thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này rất khó gặp được, cho đến
Như Lai mà cũng không biết chỗ sở đắc ấy thì nhơn vị Bồ Tát làm thế nào mà hay
biết được! Ngài Trừ Cái Chướng bạch đức Thế Tôn rằng: Ðà Ra Ni như vậy, nay
Phật Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vì sao mà không biết ư?
Phật dạy: Thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni đó là bổn tâm vi diệu của
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Nếu biết vi diệu bổn tâm ấy tức biết giải thoát.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Trong các
hữu tình có ai biết được sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni đó chăng?
Phật dạy: Không có ai biết. Thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này vô
lượng tương ưng Như Lai mà còn khó biết huống gì là Bồ Tát làm thế nào mà biết
được chổ bổn tâm vi diệu của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát? Tôi đi trải qua các
quốc độ khác cũng không biết sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này. Nếu có người thường
thọ trì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni thì khi trì tụng có chín mươi chín Căng già
sa hà sa số chư Như Lai nhóm hội, có vô số Bồ Tát nhiều như vi trần nhóm hội
cùng các Thánh chúng Thiên tử ở ba mươi hai cõi trời cũng đều nhóm hội. Lại có
bốn Ðại Thiên Vương ở bốn phương làm hộ vệ, có Ta Nga La Long vương, Vô Nhiệt
Não Long vương, Ðắc Xoa Ca Long vương, Phạ Tô Chỉ Long vương. Như vậy có vô số
trăm ngàn vạn Câu chi na khố na Long vương đến hộ vệ người thọ trì ấy. Lại ở
khắp trong cõi đất hết thảy các Dược Xoa Hư Không thần cũng đến hộ vệ. Thiện
nam tử! Trong lỗ chân lông Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát có trăm ức Như Lai an
trụ và khen ngợi người trì tụng ấy: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi
hãy được như ý ma ni bảo, bảy đời dòng họ của người đều sẽ đều được giải thoát.
Thiện nam tử! Người trì minh kia (kẻ trì chú) ở trong bụng có các trùng, các
trùng ấy sẽ được Bất thối chuyển địa vị Bồ Tát. Nếu lại có người lấy sáu chữ
Ðại Minh Ðà Ra Ni này mà đeo giữ nơi thân, trên đảnh. Thiện nam tử! Nếu thấy
được người đeo giữ ấy, thời cũng như thấy thân Kim Cang, như thấy tháp Xá Lợi,
như thấy đức Như Lai, như thấy một trăm ức trí tuệ. Nếu có kẻ trai lành gái tín
nào hay y pháp niệm sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này, thì người đó sẽ được vô tận
biện tài được trí tụ tụ thanh tịnh, được đại từ bi, như vậy người đó ngày ngày
được viên mãn công đức sáu chữ Ba la mật đa. Người đó được trời Chuyển luân
Thánh vương quán đảnh, người ấy lời nói hơi trong miệng phát ra, chạm đến thân
người nào, người chạm được bất thoái chuyển Bồ Tát, mau chóng chứng đắc Vô
thượng bồ đề Chánh đẳng chánh giác. Nếu người đeo giữ và thọ trì lấy tay chạm
đến người khác, người được rờ chạm ấy mau được Bồ Tát vị. Nếu kẻ nam người nữ,
con trai con gái, cho đến dị loại hữu tình khác, thâý được người đeo và thọ trì
ấy, tất cả đều mau được Bồ Tát vị. người như thế đó, vĩnh viễn không còn chịu
khổ sanh, già, bịnh, chết, khổ thương xa lìa, mà được sự niệm tụng tương ưng
không thể nghĩ bàn. Nay như thật mà nói lên sáu chữ đại minh Ðà Ra Ni vậy.
Phật nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.
HẾT QUYỂN BA
KINH PHẬT THỪA
TRANG NGHIÊM
BẢO
VƯƠNG KINH
QUYỂN 4
NAM MÔ PHẬT THỪA TRANG NGHIÊM
BẢO
VƯƠNG KINH
HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay làm thế
nào được sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni? Nếu được thì vô lượng thiền định tương ưng
không thể nghĩ bàn. Tức đồng được Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác, vào
môn giải thoát, thấy được địa vị Niết Bàn, tham sân vĩnh diệt, pháp tạng viên
mãn, phá hoại luân hồi của ngũ thú và tịnh các địa ngục, đoạn trừ phiền não,
cứu độ các loài bàng sanh, pháp vị viên mãn của tất cả trí, dùng trí ấy diễn
nói vô tận. Thưa Thế Tôn! Con cần sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni ấy. Con sẽ làm thế
này, lấy của thất bảo đầy trong bốn đại châu làm việc bố thí để chép viết. Bạch
Thế Tôn! Nếu thiếu giấy bút, con sẽ chích thân lấy máu làm mực, lột da làm
giấy, chẻ xương làm bút. Thật như vậy! Thưa Thế Tôn! Con không có hối tiếc, mà
tôn trọng như bậc đại cha mẹ.
Lúc bấy giờ Phật dạy Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát: Thiện nam tử! Ta nhớ thời quá
khứ, vì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này mà đã trải qua khắp vô số thế giới như vi
trần. Ta cúng dường vô số trăm ngàn vạn Câu chi an khố đa của đức Như Lai, ta ở
chỗ của đức Như Lai ấy, mà cũng không được nghe. Thời kỳ đó có Ðức Phật gọi là
Bảo Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ta
ở trước Ðức Phật đó mà rơi lệ buồn khóc. Khi bấy giờ đức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng
Giác kia dạy Ta rằng: Thiện nam tử! Ông chớ nên buồn khóc! Thiện nam tử! Ông
hãy qua bên kia, sẽ thấy đức Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, tại
nơi ấy Phật kia biết sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni.
Thiện nam tử! Ta từ từ rời chỗ đức Bảo Thượng Như Lai, qua đến cõi Phật sát của
Liên Hoa Như Lai, đến rồi đảnh lễ chân Phật mà chấp tay đứng trước: Cúi mong
đức Thế Tôn! Cho con sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni, Chơn ngôn Vương kia là bổn mẫu
của tất cả, nhớ niệm tên ấy thì tội cấu tiêu trừ, mau chứng Bồ đề. Vì cớ ấy mà
con rất mong muốn, con đã chịu khổ nhọc trải qua vô số thế giới mà cũng không
được nên nay con mới trở lại đây.
Khi ấy Ngài Liên Hoa Thượng Như Lai liền nói công đức sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni
rằng: Thiện nam tử! Vi trần đã có ta có thể đếm được số lượng. Thiện nam tử!
Lại như số cát trong biển lớn, ta có thể đếm từng hạt một. Thiện nam tử! Nếu
niệm sáu chữ Ðại Minh một biến thì công đức ấy ta không thể đếm được. Thiện nam
tử! Lại như trời người tạo lập kho lẫm, chu vi một ngàn du thiện na, cao một
trăm thiện na chứa hạt mè đầy trong kho mà không kẽ hỡ dẫu bằng một mũi kim,
người giữ kho không già không chết, trải qua năm trăm kiếp, ném bỏ ra ngoài
từng hạt mè một, như vậy trong kho ném hết không sót, ta có thể đếm số lượng
kia. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh một biến thì được công đức, ta
không thể đếm được. Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu gieo trồng hết thảy các
loại lúa nếp, Long vương mưa nắng thuận thời, lúa nếp đã trồng hết thảy chín
vàng, thu cắt đều xong. Lấy Nam Thiệm bộ châu mà làm sân chứa, dùng xe vận tải
chở hết các lúa về sân, đập để xong xuôi, dồn thành đống lớn. Thiện nam tử! Ta
có thể đếm số lúa ấy từng hạt một như vậy. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại
Minh này một biến, công đức ấy ta không thể đếm được. Thiện nam tử! Cõi Nam
Thiệm Bộ Châu có những con sông lớn ngày đêm chảy mãi gọi là sông Di Ða, sông
Kinh Nga, sông Nại Ra, sông Tán Nại Ra, sông Bà Nghiệt, sông Ái Ra Phạ Ðể, sông
Tô Ma Na Ðà, sông Hế Ma, sông Ca Lã Thú na Lị. Mỗi một con sông lớn này có năm
ngàn con sông nhỏ làm chi nhánh, ngày đêm chảy vào biển lớn.
Thiện nam tử! Như vậy mỗi con sông lớn kia ta có thể đếm số mỗi một giọt nước
kia. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh một biến được công đức ta không
thể đếm số lượng. Thiện nam tử! Lại như loài hữu tình bốn chân trong bốn đại
châu như sư tử, voi, ngựa, trâu đồng, trâu nước, cọp, beo, nai, vượn, chồn,
heo, dê, thỏ; những loài bốn chân như vậy ta có thể đếm số lượng từng sợi lông
một. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh này một biến thì được công đức ấy
ta không thể đếm số lượng được. Thiện nam tử! Lại như núi Kim Cang Câu Sơn
Vương kia, vuông mỗi bên tám vạn bốn ngàn du thiện na, nơi núi ấy có người
không già không chết, trải qua một kiếp nhiễu quanh núi chỉ được một vòng. Núi
Vương như vậy ta lấy y Kiều Thi Ca có thể trải hết không sót. Nếu có người niệm
sáu chữ Ðại Minh này được công đức ta không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử!
Lại như biển lớn sâu đến tám vạn bốn ngàn du thiện na, lỗ miệng rộng lớn vô
lượng, ta có thể lấy một sợi lông nhét vừa hết không dư. Thiện nam tử! Nếu có
người niệm một biến sáu chữ Ðại Minh này được công đức mà ta không thể nói hết
số lượng. Thiện nam tử! Lại như rừng cây Thi Lợi Sa, ta có thể đếm hết mỗi một
lá. Thiện nam tử! Nếu niệm một biến sáu chữ Ðại Minh được công đức không thể
nghĩ lường. Thiện nam tử! Lại như bốn đại bộ châu những kẻ nam người nữ, con
trai con gái ở đầy khắp trong đó, những người này đều chứng Thất Ðịa Bồ Tát,
chúng Bồ Tát ấy đã có công đức cùng với công đức người niệm sáu chữ Ðại Minh
này không khác. Thiện nam tử! Trừ một năm mười hai tháng ra còn gặp năm nhuần
mười hai tháng, lấy tháng dư nhuần ấy làm số năm đủ mãn một kiếp trên cõi trời,
ở đó ngày đêm thường mưa lớn.
Thiện nam tử! Ta có thể đếm số mỗi một hạt mưa kia được. Nếu có người niệm sáu
chữ Ðại Minh này một biến, công đức số lượng rất nhiều. Nơi ý ông nghĩ sao?
Thiện nam tử! Lại như vô số một trăm ức đức Như Lai ở tại một chỗ trải qua một
kiếp của cõi trời, lấy các thức ăn uống, y phục, ngọa cụ và thuốc thang đồ cần
dùng, các thứ ấy đem cúng dường cho các đức Như Lai mà cũng không thể đếm hết
số lượng công đức của sáu chữ Ðại Minh. Chẳng những ta ngày nay ở thế giới này
mà ta từ trong định ra cũng không thể nghĩ bàn.
Thiện nam tử! Pháp gia hạnh vi diệu tương ưng của tất cả quán trí này, người
đời sau sẽ được tâm pháp vi diệu ấy. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, khéo an trụ
sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni như thế.
Thiện nam tử! Ta lấy phước gia hạnh trải qua vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố
đa thế giới, đến chỗ đức Như Lai Vô Lượng Thọ chấp tay ở trước, vì pháp ấy mà
rơi lệ buồn khóc. Bấy giờ đức Vô Lượng Thọ Như Lai thấy ta tại đó và vì đời sau
mà bảo ta rằng: Thiện nam tử! Ông cần sáu chữ Ðại Minh Vương quán hạnh Du Già
đấy ư? Bấy giờ ta bạch: Con cần pháp ấy Thế Tôn! Con cần pháp Thiện Thệ ấy, như
người quá khát nước mà cần nước. Bạch Thế Tôn! Con vì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni
ấy mà du hành vô số thế giới, vâng thờ cúng dường vô số trăm ngàn vạn Câu chi
na khố đa Như Lai mà chưa từng được sáu chữ Ðại Minh vương Ðà Ra Ni, xin mong
đức Thế Tôn cứu cái ngu độn cho con; như không đầy đủ khiến con được đầy đủ; mê
mất đường về, dắt dẫn cho con thấy đường trở về; nắng trời gay gắt, làm bóng
che mát; nơi ngã tư đường trồng cây Ta La. Tâm con
khao khát mong cầu pháp ấy, cúi xin chỉ dạy, kiến được thiện trụ nơi đạo cứu
cánh, mặc được áp giáp đội mũ Kim Cang. Bấy giờ đức Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng
Chánh Ðẳng Giác dùng diệu âm Ca Lăng tần già bảo Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát:
Thiện nam tử! Ông thấy đức Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, vì sáu
chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này mà Ngài phải trải qua vô số trăm ngàn vạn Câu chi na
khố đa thế giới.
Thiện nam tử! Ông nên cho sáu chữ Ðại Minh. Ðức Như Lai này vì vậy cho nên đến
đây. Quán Tự Tại Bồ Tát bạch đức Thế Tôn: Không thấy được Mạn Noa La (Ðàn Pháp)
thì không thể đắc được pháp này. Làm thế nào biết là Liên Hoa ấn? Làm thế nào
biết là Trì Ma Ni ấn? Làm thế nào biết được Nhất Thiết Vương ấn? Làm thế nào
biết là Thể thanh tịnh Mạn Noa La?
Nay tướng Mạn Noa La đây: Chu vi bốn phía
vuông, mỗi bề vuông năm thước, trung tâm Ðàn Pháp (Mạn Noa La) đặt tượng Phật
Vô Lượng Thọ (Phật A Di Ðà). Nên dùng năm thứ bột quý phân rải trong đàn như:
Nhơn nại ra nhĩ la bảo mạc, Bát nạp ma ra nga bảo mạc, Ma ra kiết đa bảo mạc,
Pha để ca bảo mạc, Tô phạ ra noa lỗ bá bảo mạc. Nơi bên hữu đức Vô Lượng Thọ
Như Lai để trì Ðại Ma Ni Bảo Bồ Tát; nơi bên tả Phật để sáu chữ Ðại Minh. Bốn
tay thì thân sắc trắng đẹp như ánh trăng thu, trang nghiêm các thứ báu. Tay trái cầm hoa sen, nơi trên hoa sen để Ma Ni Bảo. Tay mặt cầm xâu chuỗi, hai tay dưới kiết Nhứt Thiết Vương
ấn. Nơi dưới chân sáu chữ Ðại Minh để trời người và các thứ trang nghiêm; tay
bên hữu cầm Lư hương, tay bên tả bưng bát đầy các thứ báu. Nơi bốn góc Man Noa
La bày bốn vị Ðại Thiên Vương nắm cầm các thứ khí trượng. Bên ngoài bốn góc Mạn
Noa La để bốn hiền bình đầy các thứ Ma Ni báu. Nếu người thiện nam và thiện nữ
muốn vào Ðàn Pháp (Mạn Noa La), không thể để cho những quyến thuộc của mình vào
trong Ðàn Pháp, chỉ nên viết tên của họ, kẻ trước vào Ðàn Pháp ấy, hãy ném tên
họ của quyến thuộc mình vào nơi trong Mạn Noa La, các quyến thuộc ấy đều được
Bồ Tát vị. Người ở trong đó xa lìa các khổ não, mau chứng đắc Vô thượng Bồ đề
Chánh đẳng chánh giác.
Pháp Mạn Noa La này vị A Xà Lê không được vọng truyền. Nếu có phương tiện thiện
xảo, thâm tín Ðại Thừa, gia công hành trì, chí cầu giải thoát, người như vậy
thì nên truyền không nên truyền ngoại đạo dị kiến (các đạo khác). Bấy giờ Ngài
Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác bảo Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát rằng:
Thiện nam tử! Nếu có năm món sắc bảo mạc như vậy mới được kiến lập Mạn Na Loa.
Nếu thiện nam tử và thiện nữ nghèo cùng thiếu thốn không thể sắm đủ các thứ quý
báu ấy thì làm thế nào? Ngài Quán Tự Tại bạch rằng: Thưa Thế Tôn! Nên phương
tiện dùng các thứ đẹp đẽ mà làm Ðàn Pháp, lấy các thứ hương hoa để cúng dường.
Nếu người thiện nam ấy cũng không sắm sửa được gì vì: hoặc ở nhờ nơi quán chợ
miễu đình, hoặc có lúc giữa đường thì bây giờ vị A Xà Lê vận ý tưởng thành Mạn
Noa La kết A Xà Lê ấn tướng.
Khi bấy giờ đức Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác bảo Ngài Quán Tự
Tại Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Hãy nói sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này cho ta, ta
vì vô số trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình, khiến họ được xa lìa luân hồi
khổ não, mau chứng Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác.
Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát nói sáu chữ Ðại Minh cho Liên Hoa Thượng
Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác rằng:
“ÔM MA NI BÁT MÊ HÙM”
Khi đang nói sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này, bốn đại bộ châu và các cung trời
thảy đều chấn động rung lay như tàu lá chuối. Nước bốn biển lớn sóng nổi cuồn
cuộn. Tất cả quỷ Tỳ Na Dạ Ca và Dược Xoa, La Sát, Củng Bàn Noa, Ma Hạ Ca … và
các quyến thuộc của các ma làm chướng ngại ấy thảy đều sợ hãi chạy trốn.
Lúc bấy giờ Ngài Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác duỗi tay như mũi
tượng vương trao cho Quán Tự Tại đại Bồ Tát chuỗi chơn châu anh lạc giá trị
trăm ngàn để dùng cúng dường. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát đã thọ nhận rồi đem
dâng lên đức Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Phật kia Ngài thọ nhận
rồi trở lại đem dâng lên đức Liên Hoa Thượng Như Lai mà khi ấy Ðức Phật Liên
Hoa Thượng Như Lai đã thọ được sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni, rồi Ngài đã trở về
trong Liên Hoa Thượng thế giới. Thiện nam tử! Khi xưa ta qua ở chỗ Liên Hoa
Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác kia đã được nghe Ðà Ra Ni như thế.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Khiến con làm thế
nào được sáu chữ Ðại Minh ấy. Bạch Thế Tôn! Cam
lồ đức vị tương ưng đầy đủ như thế. Bạch Thế Tôn! Con nếu nghe được Ðà Ra Ni ấy
thì lòng không biếng trễ, tâm niệm suy nghĩ mà thường thọ trì, khiến các hữu
tình nghe được sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni được công đức rất lớn, mong Ngài vì đó
mà nói lên.
Phật dạy: Thiện nam tử! Nếu có người biên chép sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này
thời đồng với chép tám vạn bốn ngàn Pháp Tạng. Nếu có người lấy vàng báu cõi
trời, tạo hình tượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, số như vi trần, làm như vậy
rồi nơi một ngày khánh lễ tán dương cúng dường, chỗ thu hoạch quả báo không
bằng đã được quả báo công đức biên chép một chữ trong sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni
ấy, đã khéo an trụ nơi đạo giải thoát không thể nghĩ bàn. Nếu thiện nam tử và
thiện nữ, y pháp niệm sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này thì người đó sẽ đắc tam ma
địa (được đại chánh định) gọi là: Trì ma ni bảo tam ma địa, Quảng bát tam ma
địa, Thanh tịnh địa ngục bàng sanh tam ma địa, Kim Cang giáp trụ tam ma địa,
Diệu túc bình mãn tam ma địa, Nhập chư phương tiện tam ma địa, Nhập chư pháp
tam ma địa, Quán trang nghiêm tam ma địa, Pháp xa thinh tam ma địa, Viễn ly
tham sân si tam ma địa, Vô biên tế tam ma địa, Lục ba la Mật môn tam ma địa,
Trì đại diệu cao tam ma địa, Cứu chư bố úy tam ma địa, Hiện chư Phật sát tam ma
địa, Quán sát chư Phật tam ma địa, được một trăm lẻ tám món tam ma địa như vậy.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Con nay đến nơi nào để
đắc sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni. Mong Ngài vì con chỉ dạy.
Phật dạy: Thiện nam tử! Ở thành lớn Ba La Nại có một vị Pháp sư, thường phát
tâm khóa tụng thọ trì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni. Bạch Thế Tôn! Con nay muốn qua
thành lớn Ba La Nại, thấy Pháp sư đó đặng lễ bái cúng dường. Phật dạy: Lành
thay! Lành thay! Thiện nam tử! Pháp sư kia rất khó được gặp gỡ, người hay thọ
trì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni. Thấy được Pháp sư đó cũng như thấy đức Như Lai,
như thấy công đức Thánh Ðịa, như thấy phước đức chứa tụ, như thấy trân bảo, như
thấy ban cho châu ma ni như ý, như thấy Pháp Tạng, như thấy cứu đời.
Thiện nam tử! Ông nếu thấy vị Pháp sư đó không được sanh lòng khinh mạn nghi
ngờ. Thiện nam tử! Sợ ông thoát thất địa vị Bồ Tát ngược lại sẽ chịu trầm luân,
vì vị Pháp sư kia giới hạnh khuyết phạm, lại có vợ con, đại tiểu tiện dính dơ
Ca sa, không có oai nghi.
Khi bấy giờ Trừ Cái Chướng bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Như lời Phật
ban dạy: Chúng con Trừ Cái Chướng Bồ Tát và vô số chúng xuất gia Bồ Tát, Trưởng
giả, Ðồng tử, Ðồng nữ, ủng hộ tùy tùng muốn hưng khởi đại lễ cúng dường mạnh
mẽ, nắm cầm Thiên bào cái cõi trời và các thứ mão báu, vòng ngọc đeo tai anh
lạc trang nghiêm, vòng quý đeo tay, những y phục Kiều Thi Ca, các thứ ngọa cụ bằng
nhung gấm, còn có các thứ
hoa như: Hoa Ưu bát la, hoa Cự mẫu na, hoa Bôn na lý ca, hoa Mạn na la, hoa Ma ha
mạn na la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha mạn thù sa, hoa Ưu mạn bát la rất thơm
diệu.
Còn có các loại cây hoa khác như: cây Chiêm ba ca, cây Ca la vĩ la, cây Ba tra
la, cây A để mục ngật đa ca, cây Phạ lật sử ca thiết, cây Quân đa, cây Tô ma
na, cây Ma lý ca.
Còn có các loại chim: chim Uyên ương, chim Bạch hạc, chim Xá lợi, từng bầy
theo; còn có các thứ lá đủ màu năm sắc trăm loại: vàng, xanh, đỏ, trắng, hồng,
sắc pha lê ca; có các cây quý báu thơm ngọt.
Ðem hết thảy các thứ cúng dường như thế, qua đến thành lớn Ba La Nại, đến chỗ
Pháp sư ở, đến rồi cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài. Tuy thấy pháp sư giới hạnh
khuyết phạm không có oai nghi, vẫn đem đầy đủ lọng tàn, ngoạ cụ, y phục và các
phẩm vật hương hoa trang nghiêm mà làm đại lễ cúng dường pháp sư rồi chấp tay ở
trước vị pháp sư đó mà thưa rằng: Ðây là Ðại Pháp Tạng, là Cam lồ vị tạng, là
Bể pháp thâm sâu vi diệu, cũng như hư không. Tất cả người, trời, rồng, dược
xoa, Ngạn đạt phạ, A tô la, Nga Lỗ Noa, Ma hộ la nga, người và chẳng phải
người, hết thảy khi nghe ông nói pháp tất cả đều nhóm hội nơi đó. Nghe ông noí
pháp như đại Kim Cang, khiến các hữu tình giải thoát quả báo ràng buộc luân
hồi; những hữu tình ấy đều được phước đức. Người ở trong thành lớn Ba La Nại
này thường thấy ông cho nên các tội thảy đều tiêu diệt, cũng như lửa đốt rừng
khô. Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác biết rõ nơi ông. Nay có trăm ngàn vạn vô
số Câu chi na khố đa Bồ Tát, qua đến nơi ông đồng xin thiết lễ đại hưng cúng
dường phụng sự. Trời Ðại Phạm Thiên vương, trời Na La Diên, trời Ðại Tự Tại,
trời Nhật Thiên, trời Nguyệt Thiên, trời Phong Thiên, trời Phong Thiên, trơì
Thủy Thiên, trời Hỏa Thiên, Diêm Ma Pháp Vương, và Tứ Ðại Thiên Vương cũng đều
đến cúng dường.
Bấy giờ pháp sư nói rằng: Thiện nam tử! Ông lại đùa giỡn đó ư? Hay là thật có
tam mong cầu? Hay là kẻ Thánh vì nơi thế gian đoạn trừ phiền não luân hồi ấy ư?
Thiện nam tử! Nếu có được sáu chữ Ðại Minh Vương Ðà Ra Ni này thì người đó
không thể bị ba độc tham sân si làm nhiễu ô, cũng như vàng báu tử ma không bị
bụi dơ làm bẩn. Thật như vậy, thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh vương Ðà Ra Ni này
nếu có người đeo, trì tại trong thân, người đó cũng không bị nhiễm trước bịnh
tham sân si.
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát nắm chân pháp sư mà bạch rằng: Mắt chưa đủ
sáng, mê mất đạo mầu, ai là người dẫn đường? Tôi nay khao khát Chánh pháp,
nguyện cầu ban cho pháp vị, nay tôi chưa được Chánh đẳng Bồ đề khiến được an
trụ pháp chủng Bồ đề, sắc thân thanh tịnh không hoại các thiện, khiến các hữu
tình đều chắc pháp ấy, những người thưa hỏi lòng chớ lẫn tiếc, cúi mong pháp sư
ban pháp cho tôi “sáu chữ Ðại Minh Vương”, khiến chúng tôi mau được Vô thượng
Bồ đề Chánh đẳng chánh giác, thường chuyển mười hai pháp luân, cứu độ tất cả
hữu tình ra khỏi luân hồi khổ não, pháp Ðại Minh Vương này xưa đã chưa từng
nghe. Nay khiến tôi được “sáu chữ Ðại Minh Vương Ðà Ra Ni”, không cứu giúp,
cũng chẳng nhờ nương mà được làm nơi nương tựa, trong đêm tối tăm làm đèn đuốc
sáng.
Bấy giờ pháp sư dạy rằng: Sáu chữ Ðại Minh vương Ðà Ra Ni này khó được gặp, như
Kim Cang kia không thể pháp hoại, như thấy Vô Thượng Trí, như vô tận trí, như
trí Như Lai thanh tịnh, như vào Vô thượng giải thoát, xa lìa tham sân si luân
hồi khổ não, như thiền giải thoát tam ma địa và tam ma bát để, như vào tất cả
pháp mà nơi ấy thường được Thánh chúng ưa mến. Nếu có thiện nam tử ở các nơi vì
cầu giải thoát mà phải tuân phụng các pháp ngoại đạo như kính thờ Ðế Thích hoặc
thờ bạch y, hoặc thờ thanh y, hoặc thờ Nhật thiên, hoặc thờ Ðại Tự tại thiên,
Na La Diên thiên, Nghiệt lỗ noa, hoặc trong đám ngoại đạo lõa hình, họ ưa mến
những chỗ như vậy, những kẻ ấy không được giải thoát hư vọng vô minh, có danh
gọi tu hành, mà không đắc đạo, luống uổng một cuộc đời lao nhọc. Tất cả chúng
trời: Trời Ðại phạm thiên vương, trời Ðế Thích thiên chủ, trời Na La Diên, trời
Ðại Tự tại, Nhật thiên, Nguyệt thiên, Phong thiên, Thủy thiên, Hỏa Thiên, Diêm
Ma Pháp Vương, Tứ Ðại thiên vương mà ở đó thường khi muốn làm sau cầu ta “sáu
chữ Ðại Minh vương”. Những kẻ nào đắc ta sáu chữ Ðại Minh Vương đều được giải
thoát vậy.
Trừ Cái Chướng! Tất cả Như Lai Mẫu Bát Nhã Ba la mật đa, tuyên nói sáu chữ Ðại
Minh vương như thế. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và các Bồ Tát, thảy đều
cung kính chấp tay mà lễ.
Thiện nam tử! Ở trong pháp Ðại Thừa này, là tối thượng tinh thuần vi diệu. Vì
sao vậy? Bởi đối với các khế kinh Ðại Thừa như Úng Tụng, Thọ Ký, Phúng Tụng,
Thí Dụ, Bổn Sanh, Phương Quảng, Hy Pháp, Luận Nghị trong đó mà đắc. Thiện nam
tử! Người được bổn mẫu đây thì được Niết Bàn giải thoát, cần gì phải nhờ nhiều
ư? Cũng như thân ròng lúa nếp của nhà mình. Ðồ đựng đầy phải tràn ra, trời nắng
quá thì phải khô héo, giã sàng rê sảy thì bỏ vỏ thóc, làm thế nào để thu lấy
gạo tinh. Như vậy các bộ DU GIÀ khác cũng như lúa còn vỏ, trong tất cả các bộ
Du Già. Sáu chữ “Lục Tự Ðại Minh vương” này như đã bóc vỏ thấy gạo.
Thiện nam tử! Bồ Tát được pháp đây, tu hạnh bố thí Ba la mật đa và Trì giới,
Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ Ba la mật đa. Thiện nam tử! Sáu chữ
Ðại Minh vương này khó được gặp, chỉ niệm một biến thì người đó sẽ được tất cả
Như Lai, lấy y phục, đồ ăn uống, thuốc thang, và tòa ngọa tất cả đồ cần dùng để
cúng dường.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng bồ bạch pháp sư rằng: cho tôi sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni.
Bấy giờ Ngài pháp sư chánh niệm suy nghĩ. Thoạt nhiên nơi hư không có tiếng
rằng: Thánh giả hãy ban cho sáu chữ Ðại Minh vương. Bấy giờ pháp sư kia suy
nghĩ: Là tiếng âý từ đâu pháp ra? Ở trong hư không lại phát ra tiếng rằng:
Thánh giả! Nay đây Bồ Tát gia hạnh chí cầu nên được minh ứng, cho sáu chữ Ðại
Minh vương vậy.
Bấy giờ pháp sư Ngài quán thấy trong hư không Liên Hoa Thủ, Liên Hoa Cát Tường,
như ánh trăng thu, đầu đảnh búi tóc đội mão báu, tất cả trí thù diệu trang
nghiêm, thấy thân tướng như vậy, pháp sư bảo Trừ Cái Chướng rằng: Thiện nam tử!
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, khiến nên trao cho ông sáu chữ Ðại Minh Vương Ðà
Ra Ni, ông nên lắng nghe. Lúc ấy Trừ Cái Chướng chấp tay nép thân cung kính
nghe Lục Tự Ðại Minh Vương Ðà Ra Ni rằng:
“ÔM MA NI BÁT MÊ HÙM”.
Khi trao cho Ngài Ðà Ra Ni ấy, cõi đất thảy đều có sáu lần chấn động. Trừ Cái
Chướng Bồ Tát khi ây đắc được tam ma địa, lại được vi diệu huệ tam ma địa. Ðắc
được tam ma địa rồi, bấy giờ Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát lấy thất bảo đầy trong
bốn đại bộ châu phụng hiến cúng dường pháp sư. Khi ấy pháp sư dạy rằng: Nay sự
cúng dường chưa xứng đáng một chữ thì làm thế nào cúng dường sáu chữ Ðại Minh?
Không thọ nhận đồ ông cúng. Thiện nam tử! Ông là Bồ Tát Thánh giả hay chẳng
phải Thánh giả. Ngài Trừ Cái Chướng lại lấy các chơn châu anh lạc giá trị trăm
ngàn cúng dường pháp sư. Lúc ấy pháp sư nói: Thiện nam tử! Nên lắng nghe tôi
nói, ông nên đem đồ cúng dường này mà dâng lên Ðức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng
Chánh Ðẳng Giác. Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ Tát đầu mặt đảnh lễ nơi chân pháp sư
mà nói lên lòng mong cầu được đầy đủ rồi cáo từ Ngài mà về. Trở về nơi vườn
rừng cây Kỳ Ðà, về đến nơi đảnh lễ sát chân Ðức Phật.
Bấy giờ đức Thế Tôn, Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác dạy rằng:
Thiện nam tử! Tôi biết ông đã được sở đắc. Ðúng như vậy thưa Thế Tôn!
Khi bấy giờ tại nơi ấy có bảy mươi bảy trăm ức đức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác
đều đến nhóm hội. Các đức Như Lai kia đồng nói Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni rằng:
“NAM
MÔ SẮP TA NĂNG,
SĂM DẮC SĂM BU ĐÀ DA,
KÔ TI NĂNG, TA DA THA:
ÔM CHA LÊ CHU LÊ CHUN ĐÊ SÔ HA.”
Khi bảy mươi bảy trăm ức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác nói Ðà Ra Ni này thì Ngài
Quán Tự Tại Bồ Tát nơi thân có một lỗ chân lông gọi là Nhựt Quang Minh, trong
ấy có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Bồ Tát. Trong lông Nhựt Quang Minh
kia có một vạn hai ngàn núi vàng, mỗi một núi ấy có một ngàn hai trăm chót cao,
chung quanh núi ấy có hoa sen báu trang nghiêm, chung quanh có vườn cây, có như
ý ma ni báu cõi trời, có các ao tắm cõi trời có vô số trăm ngàn vạn lầu các
trang nghiêm bằng vàng báu, trên treo trăm ngàn y phục, chơn châu, anh lạc.
Trong lầu các kia có châu báu như ý mầu nhiệm, cung cấp cho các đại Bồ Tát, tất
cả đồ cần dùng đầu đủ. Bấy giờ các Bồ Tát vào trong lầu các mà niệm sáu chữ Ðại
Minh, lúc ấy thấy được địa vị Niết Bàn. Ðến địa vị Niết Bàn rồi thấy được Như
Lai, thấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, lòng sanh vui mừng khi các Bồ Tát ra
khỏi lầu các rồi lại về chỗ kinh hành, trong đó có các vườn báu, lại về đến ao
tắm, rồi đến núi báu Liên Hoa sắc, ở tại một chỗ ngồi kiết già mà nhập vào Ðại
định, như thế đó thiện nam tử! Các Bồ Tát an trụ trong lỗ chân lông kia như
vậy. Thiện nam tử! Lại có lỗ chân lông gọi là Ðế Thích Vương, trong số đó có vô
số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa bất thoái chuyển Bồ Tát. Nơi trong lông Ðế
Thích Vương ấy có tám vạn núi vàng báu cõi trời, trong núi ấy có châu ma ni báu
như ý, gọi là Liên Hoa Quang, tùy tâm của các Bồ Tát ấy suy nghĩ những gì đều
được thành tựu.
Khi Bồ Tát ở trong núi ấy, nếu nghĩ đến việc ăn uống thì liền được đầy đủ,
không còn chịu khổ phiền não luân hồi, thường khi tư duy thì thân kia được
tương hợp với sự tư duy. Thiện nam tử! Lại có lỗ chân lông gọi là Ðại Dược nơi
trong ấy có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Bồ Tát sơ phát tâm. Thiện nam
tử! Nơi trong lỗ chân lông kia có chín vạn chín ngàn núi, trong núi ấy có hang Kim
Cang báu, hang vàng báu, hang bạc báu, hang đế thanh báu, hang liên hoa sắc
báu, hang sắc màu xanh lục báu, hang pha để ca sắc báu, núi vương đó có tám vạn
chót cao, các thứ như ý ma ni và các diệu báu khác trang nghiêm trên đó. Trong
chót núi có chúng Ngạn Ðạt Phạ thường tấu các khúc âm nhạc êm dịu, các sơ phát
tâm Bồ Tát kia suy nghĩ: không, vô tướng, vô ngã, sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ,
chết khổ, thương nhau xa lìa khổ, ghét nhau gặp gỡ khổ, đạo A Tỳ địa ngục khổ,
đọa Hắc Thằng địa ngục các hữu tình khổ. Các hữu tình đoạ vào ngã quỹ thú khổ.
Khi suy nghĩ như thế thì liền ngồi kiết già phu mà nhập vào Ðại định ở trong
núi ấy. Thiện nam tử! Lại có một lỗ chân lông gọi là Hội Hoạ Vương, trong đó có
vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa những vị Duyên Giác, hiện ra hào quang
hỏa diệm, nơi lỗ chân lông kia có trăm ngàn vạn núi vương, các núi vương ấy có
bảy báu trang nghiêm. Còn có các thứ cây Kiếp Thọ cành lá bằng vàng bạc, vô số
trăm báu cùng các thứ trang nghiêm, trên treo mão báu, vòng ngọc, các thứ y phục
anh lạc, treo các linh báu, áo Kiều Thi Ca, có các linh báu bằng vàng bạc,
tiếng khua âm vang lung linh mầu nhiệm, trong núi đầy đủ các thứ cây Kiếp Thọ
như thế, có vô số Duyên Giác an trụ trong đó, thường diễn nói Khế Kinh: Ứng
tụng, Thọ ký, Phúng tụng, Thí dụ, Bổn sanh, Phương quảng, Hi pháp, Luận nghị,
các pháp như thế.
Trừ Cái Chướng! Khi ấy các Duyên Giác ra khỏi lỗ chân lông kia, sau cùng có một
lỗ chân lông gọi rằng: Phan Vương, rộng tám vạn du thiện na; ở trong đó có tám
vạn núi, các báu mầu nhiệm và ma ni như ý trang nghiêm, trong núi vương kia có
vô số cây Kiếp Thọ, có vô số trăm ngàn vạn cây chiên đàn hương tỏa ra mùi thơm
ngọt ngào, có vô số trăm ngàn vạn cây Ðại Thọ. Lại còn có đất Kim Cang báu, có
chín mươi chín lầu các, trên treo trăm ngàn vạn chơn châu vàng báu y phục,
chuỗi ngọc anh lạc, ở trong lỗ chân lông ấy xuất hiện như thế. Trừ Cái Chướng!
Vì ông mà tôi đã nói pháp xong.
Bấy giờ Phật bảo Ngài A-Nan Ðà: Nếu có người không biết nghiệp báo, ở trong
tịnh xá làm khạc nhổ và đại tiểu tiện … Nay tôi vì ông mà nói: Nếu ở nơi đất
thường trụ thanh tịnh ấy mà khạc nhổ thì người đó sanh ở trong cây Ta La, làm
con trùng mỏ nhọn như cây kim trải qua hai mươi năm. Nếu ở đất thường trụ mà
đại tiểu tiện thì người đó sanh làm con trùng dơ uế ở trong chỗ đại tiểu tiện
nơi thành lớn Ba La Nại. Nến lén dùng riêng của thường trụ Tam-Bảo vật chừng
bằng cây tăm xỉa răng, đọa làm loài cá trạnh, cá kình, cá sấu. Nếu trộm lấy của
thường trụ Tam-Bảo những thứ như mè, dầu, gạo, đậu … đọa vào trong ba ngã quỷ,
đầu tóc bờm xờm, lông mình đứng dựng, bụng to như núi, cổ nhỏ như kim, đốt cháy
như rang khô, chỉ bày hài cốt, người đó chịu khổ báo như thế. Nếu khinh mạn
chúng Tăng, người ấy sẽ đọa sanh vào trong nhà nghèo cùng bần tiện, sanh ra nơi
nào các căn cũng không đầy đủ, lưng gù, lùn xấu, khi bỏ thân ấy rồi lại sanh
chỗ khác, nhiều bịnh hoạn khô gầy tay chân cong quẹo, máu mủ tràn lan, da thịt
nứt nẻ chảy nước, trải quan trăm ngàn vạn tuổi chịu khổ báo như thế. Nếu trộm
lấn đất cát của thường trụ, đọa vào địa ngục rên la, ăn nuốt hòn sắt nóng,
răng, môi rơi rụng và yết hầu cháy nát, tim, gan, ruột, bụng khắp mình hực
cháy.
Khi ấy có vị Tỳ Khưu nói: Nghiệp phong kia thổi đến chết rồi lại sống, nơi ấy
Diêm Ma ngục tốt ắt đầu tội nhơn, tự nghiệp cảm của người, sanh ra một lưỡi dài
lớn, có trăm ngàn vạn lưỡi cày sắt cày lên lưỡi ấy, chịu khổ báo trải qua nhiều
vạn năm, khi ra khỏi địa ngục ấy rồi, lại vào địa ngục vạc dầu sôi. Diêm Ma
ngục tốt dắt đầu tội nhơn, lấy trăm ngàn vạn kim châm trên lưỡi, vì nghiệp lực
nên vẫn không chết, như vậy lần lượt vào các địa ngục, trải qua ba kiếp. Người
ấy trở lại làm thân người ở Nam Thiệm Bộ Châu, sanh vào nhà nghèo cùng khốn
khổ, đôi mắt đui mù, phải chịu những khổ báo như thế, hãy dè dặt chớ trộm cắp tài
vật của thường trụ Tam-Bảo.
Nếu Tỳ Kheo trì giới, nên thọ trì ba y, khi vào vương cung mặc đệ nhất đại y,
thường nhựt trong chúng nên mặc đệ nhị y, làm các công vụ hoặc vào làng xóm
hoặc khi đi đường nên mặc đệ tam y. Các Tỳ Kheo nên thọ trì ba y như vậy. Nếu
trì giới thì được công đức, được trí tuệ. Ta nói Tỳ Kheo nên trì giới luật,
không được trộm dùng tài vật của thường trụ Tam-Bảo. Như ở trong hầm lửa, ở
chốn độc dược, những nơi như thế mà ta có thể cứu khỏi được, còn nếu trộm dùng
tài vật của thường trụ thì không thể nào cứu vớt được.
Bấy giờ Ngài A-Nan Ðà bạch đức Thế Tôn rằng: Như lời Phật dạy chúng con sẽ thực
hành tu học đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo thọ trì giới luật, nên khéo an trụ giữ gìn giới
pháp của đức Thế Tôn.
Bấy giờ Cù Thọ A Nan Ðà đảnh lễ sát chân Ðức Phật, nhiễu quanh rồi lui ra. Khi
ấy các vị đại Thanh Văn cũng đều trở về chỗ cũ. Tất cả trong thế gian, trời,
rồng, dược xoa, càn that bà, a tô la, nghiệt lỗ noa, khẩn na la, ma hầu la già,
người cùng chẳng phải ngươì, nghe Phật thuyết pháp rồi vui mừng tin thọ lễ Phật
mà lui về.
Phật nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương
HẾT
QUYỂN THỨ TƯ
Xã Hội Khoa Học Phật Giáo Dục
( Đạo Pháp _ Dân Tộc _ An Lạc )
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích Quảng An )