khai đàn thuyết
pháp lần thứ 5 của Đương Lai Hạ
Sanh Di Lạc Vương Tôn Phật
( Phật Hoàng Trần An )
Nam Mô A Di Đà Phật
Giáng Lâm Chứng Minh
Ngưỡng bái bạch mười
phương chư Phật, chư Tôn Thiền Đức, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni và
đại chúng ẩn thân hay hiện hình trong cõi Hư Không quy tựu về Thiên Cấm Sơn, dự
lễ khai đàn thuyết pháp lần thứ 5 của Đương Lai Hạ Sanh Di Lạc Vương Tôn Phật (
Phật Hoàng Trần An ) đã khai mở núi Thiên Cấm Sơn và Thiên Ấn Sơn. Đến dự lễ
khai đàn gồm có:
Mười phương chư Phật,
đặc biệt là Cực Lạc thế giới có Thất Phật quang lâm chứng minh. Chưởng quản là
Đức Từ Phụ A Di Đà Như Lai Phật, chư vị Bồ Tát, Chư vị Thanh Văn, Chư vị A La
Hán, Chư Thiên, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần, cùng tất cả chư Tôn Thiền Đức
trong thiền thức sẽ đến dự lễ khai đàn và nghe thuyết pháp ở cõi Ta Bà nầy. Chư
vị quan khách đến khai đàn đều có các vị Long Vương và Quan Long, dân Long,
trung Long, tiểu Long kết thành đài Liên Hoa tùy theo công đức và chức vị của
mổi chư vị quan khách, được chư vị tổ chức khai đàn thuộc Cửu Long Kim Pháp đưa
rước và bảo vệ vào dự lễ đàn. Để nghe Đức Phật ra đời mở tám vạn bốn nghìn cửa
pháp, là ánh Nhật Nguyệt cõi Thiên, Cung Trời Đao Lợi phá tối tăm sinh linh nơi đại địa. Kính xin
thất Phật Thế Tôn, mười phương Chư Phật, hiện tướng hào quang sáng suốt, giám
soi ý khẩn chơn thành.
Đúng vào giờ Dần ngày 18
tháng 06al năm giáp ngọ, tức ngày 14 tháng 07dl năm 2014 , chư Tôn Thiền Đức
khắp nơi, vô hình cũng như hữu hình đã quy tụ về 3 đỉnh núi: Thiên Cấm Sơn,
Thiên Ấn Sơn và Thiên Quy Sơn, Chư Tôn Thiền Đức đã thay phiên nhau liên tục
tụng 5 bộ đại kinh lớn như: Kinh Địa Tạng, Kinh Dược Sư, Kinh Lương Hoàng Sám,
Kinh Từ Bi Thuỷ Sám, Kinh Pháp Hoa đến 21 giờ ngày 19. 06 al. Giáp Ngọ, hoàn
thành đúng vào giờ Tý ngày 19 qua 20. 06al, Phật Hoàng Trần An khai đàn mở núi
, thuyết pháp, và trai đàn chẩn tế. trong đợt cúng mở núi lần nầy đã thành tựu
viên mãn, có tất cả 350 vị cấp 5 đèn đã đi được vào tầng thứ nhất của linh bảo
tháp của Thiên Cấm Sơn, trong lúc cúng khai núi mở cửa cung điện thì trời mưa
sấm sét nổ vang khắp bầu trời. nhưng điều kỳ lạ, trong lễ đàn không có ướt, lại
có hương hoa từ không trung rơi như tuyết rơi, thơm ngát cả một vùng.
Chư vị lắng nghe: Vào
giờ nầy trên cung Trời Đao Lợi đang trỗi Nhạc Trống Bát Nhã rền vang cả bầu
trời, còn ở dưới Ta Bà giờ nầy tại đỉnh núi Thiên Cấm Sơn, Thiên Ấn Sơn và Quy
Sơn đang đăng đàn Bát Nhã hộ phép cho Đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lạc Vương Tôn
Phật ( Phật Hoàng Trần An ) cúng khai đàn mở núi, thuyết pháp và chẩn tế. nhằm
vào sự Hoà Bình của nhân loại, nhất là Biển Đảo chủ quyền của Việt Nam, sau nầy
Việt Nam sẽ thống lảnh toàn cầu hoá.
Quý vị lắng nghe: vào
thời mạt pháp nầy, có rất nhiều Tôn Giáo đang hoằng truyền pháp môn tu học của
Tôn Giáo của mình, để có tín đồ tín ngưỡng, mà làm lành lánh dữ, tích thiện,
tích phước để trên đạt được ý nghĩa cao thâm của Tôn Giáo mình, rồi hoằng
truyền lại cho chúng sanh.
Càng hoằng truyền bao
nhiêu thì sự suy đồi bại hoại lại theo sự phát triển của khoa học làm cho nhơn
loại càng ngày càng mất nhơn tính, suy đồi một cách tầm trọng, cho nên ngài
Phật Hoàng khai mở Đạo cho tất cả Tôn Giáo quy tụ thành một Đạo
Chư
vị lắng nghe: Theo lời thọ ký của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trước
khi nhập Niết Bàn, sau này vào thời Mạt Pháp, Bồ Tát Di Lạc vì Đại Bi nguyện mà
Hạ Sanh xuống thế gian, tận độ chúng sanh. Ngài sẽ thành Chánh Qủa, là một vị
Phật thứ năm, nối tiếp Đức Phật Thích Ca, chỉnh trang Phật Đạo, giữ gìn Chánh
Pháp của Như Lai Phật trường tồn được 5000 năm.
Chiếu theo Phật Lịch, nay đã hơn 2500 năm, được ghi nhận ba lần Đức Di Lạc Hạ Lai khai đạo tại Ta Bà thế giới này, được số đông người tu theo Phật biết tiếng. Ba lần lai trần nữa nhưng Ngài im lặng nên không mấy ai biết đến. Một lần làm Quốc Sư, một lần làm vua đều ở nước Tàu, một lần dạy đạo ở Tây Tạng sẽ được trình bày chương sau. Có một kiếp Bồ Tát Di Lạc lai trần ở nước Trung Hoa, Ngài lấy tên Phó Đại Sĩ đến lúc nhập diệt, người thế gian mới được biết Phó Đại Sĩ là hóa thân của Đức Di Lạc. Đến đời nhà Lương cũng ở nước Tàu, Bồ Tát Di Lạc lai trần lấy tên Bố Đại Hòa Thượng. Thân hình Ngài khác thường hơn người thế tục, trán thì nhăn, bụng thì lớn và thân người mập mạp. Đến lúc nhập diệt, Ngài ngồi thiền tọa, không tật bệnh gì cả. Lúc đó người thế gian mới được biết Bố Đại Hòa Thượng là Bồ Tát Di Lạc hiện tướng ở Ta Bà thế giới này. Lại một kiếp khác, khi Bồ Tát Di Lạc lai trần ở Ấn Độ, Ngài lấy tên Long Thọ, đến lúc ra đi người thế gian mới được biết Ngài Long Thọ chính là hóa thân Đức Di Lạc. Mỗi lần thị hiện ở cõi ta bà thế giới này, Ngài đều vì bổn nguyện làm những việc lợi ích cho chúng sinh.
Sau thế chiến thứ hai cho đến bây giờ, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni đều cho rằng thời này chưa đến lúc Đức Di Lạc xuất thế. Ngài còn ở trên cung trời Đâu Suất, nhiều kiếp nữa mới thị hiện ra đời để tiếp nối Chánh Pháp của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Trái lại trong lúc đó biết bao lời tiên tri của các đạo giáo như Cơ Đốc Giáo, Phật Giáo, Cao Đài Giáo, Phật Thầy Tây An, Phật Giáo Hòa Hảo lại có cả nhà Bác Học cùng các bậc Dị Nhân ở miền Nam nước Việt Nam cùng các kinh sấm cho biết, Đức Di Lạc đã Hạ Lai tại Việt Nam nhưng còn ẩn.
Họ hoàn toàn tin vững vàng rằng Đức Di Lạc đã ra đời tại Việt Nam. Thực tại vẫn yên lặng, ngày tháng vẫn trôi, nhưng không ai nghe, không ai thấy, những hiện tượng kỳ lạ của kinh sấm xuất hiện để diện kiến Ngài. Dần dần khiến nhiều người bâng khuâng, lo lắng sanh ra nghi ngờ. Theo Đại Tập Kinh, sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, 2500 năm sau là thời Mạt Pháp, Đức Di Lạc Hạ Sanh vào ngày 15 tháng 11âl. Mậu Thân (1968), tức ngày 03.01.1969 dl Phật lịch 2511, nhưng ít ai để ý tới dòng dõi gia đình nông dân. Vì trên thế giới nầy mọi quốc gia đều lấy dân làm gốc, nhất là nông dân chất phát thật thà, cho nên Đức Minh Vương của chúng ta đã hạ sanh vào tầng lớp nầy, nhưng ít ai để ý và biết đến, cho nên càng làm cho nhiều bậc học giả cùng những bậc tín tâm tu Phật hoài nghi hơn nữa.
Chiếu theo Phật Lịch, nay đã hơn 2500 năm, được ghi nhận ba lần Đức Di Lạc Hạ Lai khai đạo tại Ta Bà thế giới này, được số đông người tu theo Phật biết tiếng. Ba lần lai trần nữa nhưng Ngài im lặng nên không mấy ai biết đến. Một lần làm Quốc Sư, một lần làm vua đều ở nước Tàu, một lần dạy đạo ở Tây Tạng sẽ được trình bày chương sau. Có một kiếp Bồ Tát Di Lạc lai trần ở nước Trung Hoa, Ngài lấy tên Phó Đại Sĩ đến lúc nhập diệt, người thế gian mới được biết Phó Đại Sĩ là hóa thân của Đức Di Lạc. Đến đời nhà Lương cũng ở nước Tàu, Bồ Tát Di Lạc lai trần lấy tên Bố Đại Hòa Thượng. Thân hình Ngài khác thường hơn người thế tục, trán thì nhăn, bụng thì lớn và thân người mập mạp. Đến lúc nhập diệt, Ngài ngồi thiền tọa, không tật bệnh gì cả. Lúc đó người thế gian mới được biết Bố Đại Hòa Thượng là Bồ Tát Di Lạc hiện tướng ở Ta Bà thế giới này. Lại một kiếp khác, khi Bồ Tát Di Lạc lai trần ở Ấn Độ, Ngài lấy tên Long Thọ, đến lúc ra đi người thế gian mới được biết Ngài Long Thọ chính là hóa thân Đức Di Lạc. Mỗi lần thị hiện ở cõi ta bà thế giới này, Ngài đều vì bổn nguyện làm những việc lợi ích cho chúng sinh.
Sau thế chiến thứ hai cho đến bây giờ, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni đều cho rằng thời này chưa đến lúc Đức Di Lạc xuất thế. Ngài còn ở trên cung trời Đâu Suất, nhiều kiếp nữa mới thị hiện ra đời để tiếp nối Chánh Pháp của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Trái lại trong lúc đó biết bao lời tiên tri của các đạo giáo như Cơ Đốc Giáo, Phật Giáo, Cao Đài Giáo, Phật Thầy Tây An, Phật Giáo Hòa Hảo lại có cả nhà Bác Học cùng các bậc Dị Nhân ở miền Nam nước Việt Nam cùng các kinh sấm cho biết, Đức Di Lạc đã Hạ Lai tại Việt Nam nhưng còn ẩn.
Họ hoàn toàn tin vững vàng rằng Đức Di Lạc đã ra đời tại Việt Nam. Thực tại vẫn yên lặng, ngày tháng vẫn trôi, nhưng không ai nghe, không ai thấy, những hiện tượng kỳ lạ của kinh sấm xuất hiện để diện kiến Ngài. Dần dần khiến nhiều người bâng khuâng, lo lắng sanh ra nghi ngờ. Theo Đại Tập Kinh, sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, 2500 năm sau là thời Mạt Pháp, Đức Di Lạc Hạ Sanh vào ngày 15 tháng 11âl. Mậu Thân (1968), tức ngày 03.01.1969 dl Phật lịch 2511, nhưng ít ai để ý tới dòng dõi gia đình nông dân. Vì trên thế giới nầy mọi quốc gia đều lấy dân làm gốc, nhất là nông dân chất phát thật thà, cho nên Đức Minh Vương của chúng ta đã hạ sanh vào tầng lớp nầy, nhưng ít ai để ý và biết đến, cho nên càng làm cho nhiều bậc học giả cùng những bậc tín tâm tu Phật hoài nghi hơn nữa.
“Đời là BIỂN KHỔ,
không mấy ai tránh được cái khổ của đời.
Còn vũ trụ không bao giờ giúp ta, chỉ có tâm ta mới cứu ta mà thôi.
Đường đạo Ngài xác định thật rõ ràng: Bậc tu không thể nương tựa chỉ biết cầu vái van xin mà phải chính mình tinh tấn sửa đổi tánh tình cho thật tốt, vạn pháp diễn cảnh phải chịu đựng và tự hóa giải cho sạch nghiệp. Sau khi chánh giác, bỗng tự phát lòng đại bi thương chúng sinh như thương thân mạng mình, không thể ngồi yên thấy chúng sinh đang trầm luân trong biển lửa.
Một hôm Ngài dạy tôi nghe như vầy: Tôi với ông nhiều kiếp luôn ở bên nhau, có một kiếp Tôi làm Quốc Sư ở bên Tàu, thấy người dân bị rên siết trong đau khổ không thể làm ngơ được, Tôi phải đem trí tuệ làm phương thức cứu đời. Ngày nay tu hành tuy không có binh hùng tướng mạnh, không có quyền hành, một người lính canh cũng không có, lại không có một loại vũ khí thô sơ nào ở bên cạnh, nhưng với sự quyết chí tu hành, Tôi lấy Phật Lực đầy quyền uy gấp vạn lần hơn thời trước cứu đời rất hữu hiệu.
Dưới mắt Thiền Sư, nhìn biết tình nghĩa đã trở nên nhân duyên cao dày, tan hợp, hợp tan với bao phong ba, nay ở bên nhau trong thời đại nguyên tử của thế kỷ 20; 21 này!
Còn vũ trụ không bao giờ giúp ta, chỉ có tâm ta mới cứu ta mà thôi.
Đường đạo Ngài xác định thật rõ ràng: Bậc tu không thể nương tựa chỉ biết cầu vái van xin mà phải chính mình tinh tấn sửa đổi tánh tình cho thật tốt, vạn pháp diễn cảnh phải chịu đựng và tự hóa giải cho sạch nghiệp. Sau khi chánh giác, bỗng tự phát lòng đại bi thương chúng sinh như thương thân mạng mình, không thể ngồi yên thấy chúng sinh đang trầm luân trong biển lửa.
Một hôm Ngài dạy tôi nghe như vầy: Tôi với ông nhiều kiếp luôn ở bên nhau, có một kiếp Tôi làm Quốc Sư ở bên Tàu, thấy người dân bị rên siết trong đau khổ không thể làm ngơ được, Tôi phải đem trí tuệ làm phương thức cứu đời. Ngày nay tu hành tuy không có binh hùng tướng mạnh, không có quyền hành, một người lính canh cũng không có, lại không có một loại vũ khí thô sơ nào ở bên cạnh, nhưng với sự quyết chí tu hành, Tôi lấy Phật Lực đầy quyền uy gấp vạn lần hơn thời trước cứu đời rất hữu hiệu.
Dưới mắt Thiền Sư, nhìn biết tình nghĩa đã trở nên nhân duyên cao dày, tan hợp, hợp tan với bao phong ba, nay ở bên nhau trong thời đại nguyên tử của thế kỷ 20; 21 này!
Từ thửa ngàn xưa nay gặp đây
Phải chăng duyên xưa rất cao dầy
Muôn kiếp muôn đời ai cũng thấy
Hạ sanh Di Lặc Hải Lạc đây.
nay lại với cái tên Quảng An, Hoằng Giáo, Hải Lạc cũng
chuyển mình theo sự tiến bộ ấy và Ngài đã thành công trên khoa học và trên cả
những chính trị gia thế giới mới là vi diệu. Ngài thị hiện ở cõi Ta Bà thế giới
này, trình độ học vấn cấp cao cấp Phật học,
mà biết bao nhà khoa học gia với bằng cấp tiến sĩ, bác học đã phát minh
bao điều dù cho tối tân cũng không qua nổi sự chỉ đạo kín nhiệm của Ngài từ xa
rất xa. Kinh sách Ngài nhập Chánh Định Tam Muội ghi chép lại những nhân vật
trình độ Đại học đọc đã phải thán phục và chưa hiểu hết nổi. Thế mới biết cái học
không qua được Chánh Giác.
Trong thời Đức Minh Vương tận độ chúng sinh, nguyện ứng trực hộ trì chánh pháp, giải tỏa chùa chiền bị đóng cửa được mở cửa lại cho các bậc tín tâm vào lễ bái, chiêm ngưỡng Phật và tu hành theo ý nguyện.
Tăng Ni Phật Tử các nước được tiếp tục tu hành cho đến khi Trái đất đổi mới phải kể đến nguyện độ sinh của Chư Thiên, Chư Thần, Chư Long Thần Hộ Pháp. Góp phần xây dựng hòa bình trên thế giới và hộ trì Chánh Pháp do Đức Minh Vương điều động và lãnh đạo. Thật không thể tưởng nổi trở lại với cái tên Minh Vương ẩn dưới bao điều huyền diệu mà giới khoa học Tây Phương đành chịu! Ngày nay bậc A La Hán là Minh Điển, Trí Đức, Đạt Trí, Trí Thông và Hộ Pháp Thanh Như, ở đẳng cấp Bồ Tát, theo Đức Minh Vương lập công đức tu hành, nhóm Ngũ Hổ đẳng cấp Bồ Tát gồm có Thiện Đức, Minh Châu, Tính Huệ, Kim Hạnh, Kim Phước cùng các cận thần đời Vua Trần như Trí Giác, Tính Kim, Định Phương, Thanh Hải, Định Giác, Định Như v.v. cũng đều phát tâm tu hành trong Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam tức trong Long Hoa Hội Thượng.
Các vua, quan thời đại Đinh-Lê-Lý-Trần cũng lai sinh theo tu quanh Ngài với xác thân mới tên tuổi mới của kiếp này. Không có gì lạ vì nhân duyên đã gieo từ trước, ta thấy lịch sử ghi chép lại những triều đại này đều sùng ái đạo Phật, nay họ cầu Tri Kiến Giải Thoát nên gặp lại. Thời này các Vua Trần cùng những cận thần xưa lai sinh làm người theo tu hành con đường Giác Ngộ.
Trần Hưng Đạo không lai sinh làm người mà vẫn giữ vị trí cấp Thánh vô hình theo hộ trì chánh pháp. Gần ngày nhập Bát Đại Niết Bàn Đức Minh Vương chứng minh cho Trần Hưng Đạo là Hộ Pháp và căn dặn.
“Sau này ông truyền cho các chùa nên thờ Trần Hưng Đạo vì ổng đi giúp mở cửa các chùa cho chúng sinh tu hành!”
Nhóm Ngũ Hổ cũng nằm Bộ Trung Ương điều hành suốt lộ trình hành đạo của Ngài cho chúng sinh được tu hành. Đặc biệt chân tử của Ngài rất đông và bên cạnh có khá nhiều con cháu của các bậc tiền nhơn tôn túc đi trước cũng tu nhưng lòng dạ đầy trắc ẩn, đầy tỵ hiềm, luôn tìm cách quấy nhiễu. chỉ muốn đọc kinh tiếng phạn, tiếng pali, tiếng tàu, chê tiếng Việt không linh. ( đây là một điều hết sức sai lầm )
Về phương diện thần bí, dưới mắt Thiền Sư giải đáp thì khoa học, không chấp nhận vì họ đòi hỏi phải có hiện vật thí nghiệm cụ thể chứng minh nhưng dù cho có cụ thể chứng minh để giải đáp mà họ chưa có cặp mắt Thiền Định, chưa có trình độ Thiền Sư khó mà nhận được để chấp nhận.
Ví như khi Đức Minh Vương Chánh Giác Ngài nhớ tiền kiếp quá khứ, rất nhiều kiếp cả trăm ngàn năm về trước nay thấy đủ chuyện tương lai của nhân loại trên quả địa cầu này cùng của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, giờ này có nói ra càng thêm cải vả. Vài năm mới đây chuyện bảy hành tinh cùng hiện một lúc mà báo chí đã đăng tin, thế giới đâu có biêt chính Đức Di Lạc đã thực hiện, dù có biết cũng không thỏa mãn cho họ được. Chỉ trừ họ quay về Việt Nam nguyên cứu, theo học Đông Phương, khám phá ngay chính thân mạng họ, may ra mới thỏa mãn được mà giao cảm đồng thể với vũ trụ, như trong kinh, Ngài quả quyết có thế giới vô hình hằng hà sa số trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới trong khi đó khoa học tìm có vô số hành tinh nhưng lại không tìm ra được sự sống của các sinh vật mà chỉ mắt Thiền Sư mới thấy.
Vì sao? Vì Thiền Sư luôn hướng thượng nhờ ý thức thi hành trong cuộc sống điều ngự tánh tình, kết quả trở thành Siêu Nhân, Thánh Triết, nhận thấy cái gì cũng chân thật, ngoài ra còn cá tánh lấy cái học để nghiên cứu khó mà thấy đặng. Đời nhà Đường ở Trung Hoa Vua Lý Thế Dân chính là Bồ Tát Di Lạc trong lúc đó hóa thân Tôn Giả Mục Kiền Liên chính là Trần Huyền Trang đi thỉnh kinh từ Trung Hoa đến Ấn Độ – Đức Minh Vương hóa thân Đức Di lạc khai thị tôi nghe như vầy:
“Bồ Tát được mục đích Bất thối tuyệt đỉnh, bậc này an nhiên không còn ái nhiễm, bước ra đi dạo khắp các cảnh giới. Lễ bái Đức A Di Đà Phật, một là an trú Cõi Cực Lạc, hai là phát Đại nguyện lai trần.
Bậc giác ngộ rốt ráo tức Chánh Giác, bậc này phải chờ diện kiến Đức Đại Lực Di Lạc thành Phật thử thách, kiểm tra rồi chứng minh mới được nhập thể.
Như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng chứng minh Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Di Lạc Bồ Tát... Thời hạ kiếp này cũng vậy, Đức Di Lạc đã khai mở Long Hoa 18 năm mà những vị tự xưng Chánh Giác không vào diện kiến để chứng minh, dù có xưng Phật cũng không phải Phật thật vì chưa đủ công năng công đức mà xưng bị kẹt ở Phật Giới thật tai hại vô lượng kiếp. Bởi vậy bậc tín tâm biết rằng, mỗi khi Đức Di Lạc lai trần đều có tất cả các vị Tổ thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật theo tu học ở quanh Ngài.
Như đời nhà Đường ở bên Tàu, vua Lý Thế Dân ra đời chính là Bồ Tát Di Lạc thì có Tôn giả Mục Kiền Liên hóa thân là Trần Huyền Trang đi thỉnh kinh. Một điểm đặc biệt mà bậc tín tâm cần lưu tâm là trước khi viên tịch, chân tử của Pháp sư Huyền Trang tên là Phổ Quang và những người khác có hỏi “Thầy có chắc được tái sinh lên cõi Trời Đâu Suất không?
- Pháp sư trả lời: “Chắc chắn như vậy” Rồi Pháp sư nói “Nhục thân độc địa này của Huyền Trang thật đáng nhàm chán. Nay công việc đã xong, tôi quả không nên lưu lại ở đây nữa. Tôi xin hồi hướng tất cả công đức và tri thức của tôi cho tất cả chúng sinh, cầu mong tất cả chúng ta sẽ được sinh lên cõi trời Đâu Suất theo học Bồ Tát Di Lạc và phụng sự Ngài.
Khi Đức Phật lại xuống trần, chúng ta cầu mong sẽ được xuống lại cùng với Ngài để tiến hành Phật sự cho đến khi chúng ta đạt được mục đích Tối Thượng”
Đức Di Lạc Hạ Lai kỳ này ở vào hậu bán thế kỷ thứ 20. Xuất gia Tu tại gia. Trần Huyền Trang cũng hiện cư sĩ. Chư Tổ thời Đức Phật Thích Ca cũng hiện diện đầy đủ với hạnh xuất cư tại gia. Tất cả đều sống chung gia đình, làm tất cả các ngành nghề trong xã hội miền nam Việt Nam.
Nay đã hội tề đông đủ, theo tu học Đức Di Lạc. Trong đó Trần Huyền Trang với hóa thân mới, tên mới là Thanh Như của kiếp này đã được Đức Minh Vương chọn đứng đầu Bộ Trung Ương, tiến hành Phật sự suốt lộ trình hành đạo của Ngài ở thế giới này. Ông cũng chịu muôn vàn gian nan, khắc nghiệt của thời mạt kiếp còn hơn thời đi thỉnh kinh nữa. Có rất nhiều chân tử Ngài Minh Vương đồng tu với Huyền Trang đã tìm đủ cách xô, lật, đập đổ... đủ hình thức nhưng họ không đủ trí bát nhã nên đã nhiều đợt bị thất bại.
Thật hy hữu thay lời nguyện xưa ở thế kỷ thứ bảy đã được thể hiện đúng vẹn vừa ở thế kỷ 20 này, thế kỷ nguyên tử mà Đức Di Lạc đã hiện thân. Ngày nay đã được giải có đáp số đúng. Thế mới biết bậc tu hành thành thật tâm và thiết tha tâm đều được Chư Phật mười phương gia hộ chứng minh không có sai chạy. Giả sử nếu thời pháp sư Huyền Trang không được sanh về cõi Trời Đâu Suất như đã hạnh nguyện, sao ta thấy kỳ hạ lai này Đức Di Lạc hiện xuất gia tu ở tại gia, Huyền Trang cũng hiện cư sĩ tại gia và gặp nhau kiếp cuối thành Phật của Đức Di Lạc. Huyền Trang cũng đã phụng sự đúng nguyện và đã thành công. Kiếp nào Chư Tổ cũng xuất gia nhưng khi Đức Di Lạc sống tại gia là tất cả cũng tại gia. Do đó chúng ta phải biết rằng đã có sắp xếp của Ngài trước khi lai trần và đã hội tề với nhau trước là chuyện chắc chắn.
Vào hậu bán thế kỷ thứ 11, Tôn giả Mục Kiền Liên lai sinh ở Tây Tạng là một La Ma Milarepa có lịch sử ghi chép cuốn Milarepa con người siêu việt. Lúc đó Đức Di Lạc là Thầy dạy đạo cho Milarepa. Bao nhiêu kiếp hạnh nguyện năng động thuộc phẩm Bất Khả Tư Nghì, chờ đến thời Hạ Lai này mới được chứng minh là cả một chuổi dài qua nhiều kiếp tinh tấn không ngừng, không mệt mỏi, cùng sự chịu đựng vạn pháp diễn hành có lắm lúc kiệt sức. Nhiều bậc chạy dài trong thời mạt pháp này, không chịu đựng nổi phải quay lại vào chùa, vào cốc, trốn không gặp vạn pháp diễn hành ở thế gian!
Một hôm Đức Quảng An khai thị: Chân tử của Ngài hàng hàng lớp lớp hiện nay.
Trong thời Đức Minh Vương tận độ chúng sinh, nguyện ứng trực hộ trì chánh pháp, giải tỏa chùa chiền bị đóng cửa được mở cửa lại cho các bậc tín tâm vào lễ bái, chiêm ngưỡng Phật và tu hành theo ý nguyện.
Tăng Ni Phật Tử các nước được tiếp tục tu hành cho đến khi Trái đất đổi mới phải kể đến nguyện độ sinh của Chư Thiên, Chư Thần, Chư Long Thần Hộ Pháp. Góp phần xây dựng hòa bình trên thế giới và hộ trì Chánh Pháp do Đức Minh Vương điều động và lãnh đạo. Thật không thể tưởng nổi trở lại với cái tên Minh Vương ẩn dưới bao điều huyền diệu mà giới khoa học Tây Phương đành chịu! Ngày nay bậc A La Hán là Minh Điển, Trí Đức, Đạt Trí, Trí Thông và Hộ Pháp Thanh Như, ở đẳng cấp Bồ Tát, theo Đức Minh Vương lập công đức tu hành, nhóm Ngũ Hổ đẳng cấp Bồ Tát gồm có Thiện Đức, Minh Châu, Tính Huệ, Kim Hạnh, Kim Phước cùng các cận thần đời Vua Trần như Trí Giác, Tính Kim, Định Phương, Thanh Hải, Định Giác, Định Như v.v. cũng đều phát tâm tu hành trong Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam tức trong Long Hoa Hội Thượng.
Các vua, quan thời đại Đinh-Lê-Lý-Trần cũng lai sinh theo tu quanh Ngài với xác thân mới tên tuổi mới của kiếp này. Không có gì lạ vì nhân duyên đã gieo từ trước, ta thấy lịch sử ghi chép lại những triều đại này đều sùng ái đạo Phật, nay họ cầu Tri Kiến Giải Thoát nên gặp lại. Thời này các Vua Trần cùng những cận thần xưa lai sinh làm người theo tu hành con đường Giác Ngộ.
Trần Hưng Đạo không lai sinh làm người mà vẫn giữ vị trí cấp Thánh vô hình theo hộ trì chánh pháp. Gần ngày nhập Bát Đại Niết Bàn Đức Minh Vương chứng minh cho Trần Hưng Đạo là Hộ Pháp và căn dặn.
“Sau này ông truyền cho các chùa nên thờ Trần Hưng Đạo vì ổng đi giúp mở cửa các chùa cho chúng sinh tu hành!”
Nhóm Ngũ Hổ cũng nằm Bộ Trung Ương điều hành suốt lộ trình hành đạo của Ngài cho chúng sinh được tu hành. Đặc biệt chân tử của Ngài rất đông và bên cạnh có khá nhiều con cháu của các bậc tiền nhơn tôn túc đi trước cũng tu nhưng lòng dạ đầy trắc ẩn, đầy tỵ hiềm, luôn tìm cách quấy nhiễu. chỉ muốn đọc kinh tiếng phạn, tiếng pali, tiếng tàu, chê tiếng Việt không linh. ( đây là một điều hết sức sai lầm )
Về phương diện thần bí, dưới mắt Thiền Sư giải đáp thì khoa học, không chấp nhận vì họ đòi hỏi phải có hiện vật thí nghiệm cụ thể chứng minh nhưng dù cho có cụ thể chứng minh để giải đáp mà họ chưa có cặp mắt Thiền Định, chưa có trình độ Thiền Sư khó mà nhận được để chấp nhận.
Ví như khi Đức Minh Vương Chánh Giác Ngài nhớ tiền kiếp quá khứ, rất nhiều kiếp cả trăm ngàn năm về trước nay thấy đủ chuyện tương lai của nhân loại trên quả địa cầu này cùng của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, giờ này có nói ra càng thêm cải vả. Vài năm mới đây chuyện bảy hành tinh cùng hiện một lúc mà báo chí đã đăng tin, thế giới đâu có biêt chính Đức Di Lạc đã thực hiện, dù có biết cũng không thỏa mãn cho họ được. Chỉ trừ họ quay về Việt Nam nguyên cứu, theo học Đông Phương, khám phá ngay chính thân mạng họ, may ra mới thỏa mãn được mà giao cảm đồng thể với vũ trụ, như trong kinh, Ngài quả quyết có thế giới vô hình hằng hà sa số trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới trong khi đó khoa học tìm có vô số hành tinh nhưng lại không tìm ra được sự sống của các sinh vật mà chỉ mắt Thiền Sư mới thấy.
Vì sao? Vì Thiền Sư luôn hướng thượng nhờ ý thức thi hành trong cuộc sống điều ngự tánh tình, kết quả trở thành Siêu Nhân, Thánh Triết, nhận thấy cái gì cũng chân thật, ngoài ra còn cá tánh lấy cái học để nghiên cứu khó mà thấy đặng. Đời nhà Đường ở Trung Hoa Vua Lý Thế Dân chính là Bồ Tát Di Lạc trong lúc đó hóa thân Tôn Giả Mục Kiền Liên chính là Trần Huyền Trang đi thỉnh kinh từ Trung Hoa đến Ấn Độ – Đức Minh Vương hóa thân Đức Di lạc khai thị tôi nghe như vầy:
“Bồ Tát được mục đích Bất thối tuyệt đỉnh, bậc này an nhiên không còn ái nhiễm, bước ra đi dạo khắp các cảnh giới. Lễ bái Đức A Di Đà Phật, một là an trú Cõi Cực Lạc, hai là phát Đại nguyện lai trần.
Bậc giác ngộ rốt ráo tức Chánh Giác, bậc này phải chờ diện kiến Đức Đại Lực Di Lạc thành Phật thử thách, kiểm tra rồi chứng minh mới được nhập thể.
Như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng chứng minh Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Di Lạc Bồ Tát... Thời hạ kiếp này cũng vậy, Đức Di Lạc đã khai mở Long Hoa 18 năm mà những vị tự xưng Chánh Giác không vào diện kiến để chứng minh, dù có xưng Phật cũng không phải Phật thật vì chưa đủ công năng công đức mà xưng bị kẹt ở Phật Giới thật tai hại vô lượng kiếp. Bởi vậy bậc tín tâm biết rằng, mỗi khi Đức Di Lạc lai trần đều có tất cả các vị Tổ thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật theo tu học ở quanh Ngài.
Như đời nhà Đường ở bên Tàu, vua Lý Thế Dân ra đời chính là Bồ Tát Di Lạc thì có Tôn giả Mục Kiền Liên hóa thân là Trần Huyền Trang đi thỉnh kinh. Một điểm đặc biệt mà bậc tín tâm cần lưu tâm là trước khi viên tịch, chân tử của Pháp sư Huyền Trang tên là Phổ Quang và những người khác có hỏi “Thầy có chắc được tái sinh lên cõi Trời Đâu Suất không?
- Pháp sư trả lời: “Chắc chắn như vậy” Rồi Pháp sư nói “Nhục thân độc địa này của Huyền Trang thật đáng nhàm chán. Nay công việc đã xong, tôi quả không nên lưu lại ở đây nữa. Tôi xin hồi hướng tất cả công đức và tri thức của tôi cho tất cả chúng sinh, cầu mong tất cả chúng ta sẽ được sinh lên cõi trời Đâu Suất theo học Bồ Tát Di Lạc và phụng sự Ngài.
Khi Đức Phật lại xuống trần, chúng ta cầu mong sẽ được xuống lại cùng với Ngài để tiến hành Phật sự cho đến khi chúng ta đạt được mục đích Tối Thượng”
Đức Di Lạc Hạ Lai kỳ này ở vào hậu bán thế kỷ thứ 20. Xuất gia Tu tại gia. Trần Huyền Trang cũng hiện cư sĩ. Chư Tổ thời Đức Phật Thích Ca cũng hiện diện đầy đủ với hạnh xuất cư tại gia. Tất cả đều sống chung gia đình, làm tất cả các ngành nghề trong xã hội miền nam Việt Nam.
Nay đã hội tề đông đủ, theo tu học Đức Di Lạc. Trong đó Trần Huyền Trang với hóa thân mới, tên mới là Thanh Như của kiếp này đã được Đức Minh Vương chọn đứng đầu Bộ Trung Ương, tiến hành Phật sự suốt lộ trình hành đạo của Ngài ở thế giới này. Ông cũng chịu muôn vàn gian nan, khắc nghiệt của thời mạt kiếp còn hơn thời đi thỉnh kinh nữa. Có rất nhiều chân tử Ngài Minh Vương đồng tu với Huyền Trang đã tìm đủ cách xô, lật, đập đổ... đủ hình thức nhưng họ không đủ trí bát nhã nên đã nhiều đợt bị thất bại.
Thật hy hữu thay lời nguyện xưa ở thế kỷ thứ bảy đã được thể hiện đúng vẹn vừa ở thế kỷ 20 này, thế kỷ nguyên tử mà Đức Di Lạc đã hiện thân. Ngày nay đã được giải có đáp số đúng. Thế mới biết bậc tu hành thành thật tâm và thiết tha tâm đều được Chư Phật mười phương gia hộ chứng minh không có sai chạy. Giả sử nếu thời pháp sư Huyền Trang không được sanh về cõi Trời Đâu Suất như đã hạnh nguyện, sao ta thấy kỳ hạ lai này Đức Di Lạc hiện xuất gia tu ở tại gia, Huyền Trang cũng hiện cư sĩ tại gia và gặp nhau kiếp cuối thành Phật của Đức Di Lạc. Huyền Trang cũng đã phụng sự đúng nguyện và đã thành công. Kiếp nào Chư Tổ cũng xuất gia nhưng khi Đức Di Lạc sống tại gia là tất cả cũng tại gia. Do đó chúng ta phải biết rằng đã có sắp xếp của Ngài trước khi lai trần và đã hội tề với nhau trước là chuyện chắc chắn.
Vào hậu bán thế kỷ thứ 11, Tôn giả Mục Kiền Liên lai sinh ở Tây Tạng là một La Ma Milarepa có lịch sử ghi chép cuốn Milarepa con người siêu việt. Lúc đó Đức Di Lạc là Thầy dạy đạo cho Milarepa. Bao nhiêu kiếp hạnh nguyện năng động thuộc phẩm Bất Khả Tư Nghì, chờ đến thời Hạ Lai này mới được chứng minh là cả một chuổi dài qua nhiều kiếp tinh tấn không ngừng, không mệt mỏi, cùng sự chịu đựng vạn pháp diễn hành có lắm lúc kiệt sức. Nhiều bậc chạy dài trong thời mạt pháp này, không chịu đựng nổi phải quay lại vào chùa, vào cốc, trốn không gặp vạn pháp diễn hành ở thế gian!
Một hôm Đức Quảng An khai thị: Chân tử của Ngài hàng hàng lớp lớp hiện nay.
Từ Đâu Ta Đến
Sau Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến chỉ tính sơ qua những
biến cố kinh tế, xã hội, chính trị của các quốc gia trên thế giới, dồn dập
nghiêm trọng đến mức độ những nhà bác học, những nhà phát minh khoa học, những
nhà xã hội học hoang mang và lo sợ.
Nhiều người bi quan cho rằng thế chiến thứ ba sẽ bùng nổ do những công trình phát minh của họ đồng thời cũng báo hiệu ngày tận thế sẽ xảy ra. Song song với việc con người tác tạo quá mức, còn có những trận cuồng phong bão tố tàn phá dữ dội, những trận động đất cực mạnh, nạn hạn hán kéo dài, nạn lụt lội tệ hại nhất thế kỷ, đã làm chết không biết bao nhiêu người mà kể cho hết được.
Đặc biệt nhất là nạn ô nhiễm môi trường sống thiên nhiên trong đất, trong nước ao, hồ, sông, biển. Khí độc thải ra phá tầng ozone của bầu khí quyển mỗi ngày một lớn dần. Trong khi những nhà lãnh đạo của các nước tiên tiến về công nghiệp chưa ý thức nhanh chóng làm chấm dứt những vấn nạn trên.
Chỉ bấy nhiêu tác hại trên cũng là nguyên nhân gây bệnh hiểm nghèo mỗi ngày một lan tràn cho nhân loại. Hậu quả thảm khốc và đau thương khủng khiếp hơn nữa trong trận Thế Chiến một và hai, đã để lại cho những người dân vô tội bị tan thương, mất mát không sao kể cho hết được.
Nhiều bậc có đạo đức, có trình độ hiểu biết về sự tồn vong của nhân loại, rất lo lắng. Họ tự hỏi, nhân loại cứ tiếp diễn bị sống bấp bênh quá mức chịu đựng, cuối đường sẽ đi về đâu? Có phải đây là triệu chứng của thời Mạt Kiếp?
Hủy diệt hay có Đấng Cứu Thế ra đời? Không một ai dám khẳng định cho nhân loại yên lòng được.
Riêng tại Việt Nam, kinh sấm đã lan truyền nhanh nhiều nơi trong nước: Tu mau kẻo trễ - sắp đến rồi - Đức Di Lạc đã ra đời. Hãy vững tin chờ đợi, nhưng không ai dám nói chính xác bao giờ Ngài ra đời. Cùng lúc, cũng có lắm kẻ cười chế diễu, vì họ cho là tin nhảm, ảo tưởng đối với những lời tiên tri trên. Họ hô hào hãy dùng hai bàn tay lao động để sống. Một nghìn năm bị đô hộ bởi người Tàu, một trăm năm bị đô hộ bởi giặc Tây, năm mươi năm nội chiến từng ngày”, bất cứ ai mới nghe qua cũng đủ biết từ thời ông Sơ, ông Cố của dân Việt Nam đã gánh chịu bao đau thương tang tóc, sự khốn cùng kéo dài lê thê qua nhiều thế hệ, đã chứng minh bao cảnh chém giết đầy man rợ, cảnh lầm than khốn khổ, cảnh chết vì đói, vì tù đày, vì gia đình ly tan quá đau buồn... Phải thán phục sức chịu đựng của ông cha ta đứng đầu trên thế giới.
Với tình hình xã hội vô cùng khắc nghiệt và vô cùng hỗn loạn như vậy, nhiều bậc hiểu biết càng ngày càng nhận định rõ: Con người đã và đang sụp đổ về tinh thần cùng sự suy đồi thường diễn hàng ngày khiến họ tin rằng Đức Di Lạc sắp ra đời vì Cùng Tất Biến là lẽ thường.
Để tán thán lời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cách đây đã hơn 2500 năm, Ngài đã khai thị hoàn toàn đúng với trăm ngàn chân thật. Đọc xong, quý vị Tăng Ni, Phật Tử, các nhà xã hội học, bác học, nhà phát minh khoa học hãy lập thành phái đoàn đến miền Nam Việt Nam, khảo sát và kiểm chứng lại. Qúy vị sẽ thấy bỗng nhiên ĐÊM hóa NGÀY của thế giới chúng ta đang sống đầy mầu nhiệm, đầy kỳ bí.
Nó thực tiễn lắm! Không một chút ảo tưởng, không hề viễn vông! Qúy vị còn tìm được nguồn sống mới an vui và tràn đầy hạnh phúc cho hiện tại và những kiếp tương lai nữa. Nếu không có luân hồi sao rất nhiều bậc tu nhớ kiếp trước của mình là ai? làm gì? ở đâu? rồi ghi chép lại rành mạch. Đối với các bậc Thánh Nhân, Thiền Sư nhớ quá khứ kiếp, đã ghi chép lại. Ngày nay các nhà khoa học cũng đã nghe, thấy, nhiều tài liệu đã để lại có chứng minh.
Các Nhà Khoa Học, Thực Nghiệm kiểm chứng các vật bên ngoài, còn các Thiền Sư Đông Phương kiểm soi khám phá ngay trong thân mạng mình để biết vũ trụ.
Điều mà người tu hành lẫn người thế gian cần biết, Đức Trí của Chư Phật quá siêu đẳng, đã từng đem lại nguồn sống và hạnh phúc cho tứ loài mà tứ loài chẳng hay biết.
Bậc Chánh Giác chỉ sử dụng thần thông như một phương tiện khi cần thiết. Chư vị cũng không muốn những mầu nhiệm của vũ trụ được sử dụng để tiết lộ cho kẻ phàm tục đầy kiêu ngạo biết. Làm xong Ngài âm thầm ra đi, không cần chúng sanh tranh cãi đúng sai, không cần ở lại hưởng gì của thế gian, miễn sao tận độ chúng sanh an lành là đủ.
Nhiều người bi quan cho rằng thế chiến thứ ba sẽ bùng nổ do những công trình phát minh của họ đồng thời cũng báo hiệu ngày tận thế sẽ xảy ra. Song song với việc con người tác tạo quá mức, còn có những trận cuồng phong bão tố tàn phá dữ dội, những trận động đất cực mạnh, nạn hạn hán kéo dài, nạn lụt lội tệ hại nhất thế kỷ, đã làm chết không biết bao nhiêu người mà kể cho hết được.
Đặc biệt nhất là nạn ô nhiễm môi trường sống thiên nhiên trong đất, trong nước ao, hồ, sông, biển. Khí độc thải ra phá tầng ozone của bầu khí quyển mỗi ngày một lớn dần. Trong khi những nhà lãnh đạo của các nước tiên tiến về công nghiệp chưa ý thức nhanh chóng làm chấm dứt những vấn nạn trên.
Chỉ bấy nhiêu tác hại trên cũng là nguyên nhân gây bệnh hiểm nghèo mỗi ngày một lan tràn cho nhân loại. Hậu quả thảm khốc và đau thương khủng khiếp hơn nữa trong trận Thế Chiến một và hai, đã để lại cho những người dân vô tội bị tan thương, mất mát không sao kể cho hết được.
Nhiều bậc có đạo đức, có trình độ hiểu biết về sự tồn vong của nhân loại, rất lo lắng. Họ tự hỏi, nhân loại cứ tiếp diễn bị sống bấp bênh quá mức chịu đựng, cuối đường sẽ đi về đâu? Có phải đây là triệu chứng của thời Mạt Kiếp?
Hủy diệt hay có Đấng Cứu Thế ra đời? Không một ai dám khẳng định cho nhân loại yên lòng được.
Riêng tại Việt Nam, kinh sấm đã lan truyền nhanh nhiều nơi trong nước: Tu mau kẻo trễ - sắp đến rồi - Đức Di Lạc đã ra đời. Hãy vững tin chờ đợi, nhưng không ai dám nói chính xác bao giờ Ngài ra đời. Cùng lúc, cũng có lắm kẻ cười chế diễu, vì họ cho là tin nhảm, ảo tưởng đối với những lời tiên tri trên. Họ hô hào hãy dùng hai bàn tay lao động để sống. Một nghìn năm bị đô hộ bởi người Tàu, một trăm năm bị đô hộ bởi giặc Tây, năm mươi năm nội chiến từng ngày”, bất cứ ai mới nghe qua cũng đủ biết từ thời ông Sơ, ông Cố của dân Việt Nam đã gánh chịu bao đau thương tang tóc, sự khốn cùng kéo dài lê thê qua nhiều thế hệ, đã chứng minh bao cảnh chém giết đầy man rợ, cảnh lầm than khốn khổ, cảnh chết vì đói, vì tù đày, vì gia đình ly tan quá đau buồn... Phải thán phục sức chịu đựng của ông cha ta đứng đầu trên thế giới.
Với tình hình xã hội vô cùng khắc nghiệt và vô cùng hỗn loạn như vậy, nhiều bậc hiểu biết càng ngày càng nhận định rõ: Con người đã và đang sụp đổ về tinh thần cùng sự suy đồi thường diễn hàng ngày khiến họ tin rằng Đức Di Lạc sắp ra đời vì Cùng Tất Biến là lẽ thường.
Để tán thán lời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cách đây đã hơn 2500 năm, Ngài đã khai thị hoàn toàn đúng với trăm ngàn chân thật. Đọc xong, quý vị Tăng Ni, Phật Tử, các nhà xã hội học, bác học, nhà phát minh khoa học hãy lập thành phái đoàn đến miền Nam Việt Nam, khảo sát và kiểm chứng lại. Qúy vị sẽ thấy bỗng nhiên ĐÊM hóa NGÀY của thế giới chúng ta đang sống đầy mầu nhiệm, đầy kỳ bí.
Nó thực tiễn lắm! Không một chút ảo tưởng, không hề viễn vông! Qúy vị còn tìm được nguồn sống mới an vui và tràn đầy hạnh phúc cho hiện tại và những kiếp tương lai nữa. Nếu không có luân hồi sao rất nhiều bậc tu nhớ kiếp trước của mình là ai? làm gì? ở đâu? rồi ghi chép lại rành mạch. Đối với các bậc Thánh Nhân, Thiền Sư nhớ quá khứ kiếp, đã ghi chép lại. Ngày nay các nhà khoa học cũng đã nghe, thấy, nhiều tài liệu đã để lại có chứng minh.
Các Nhà Khoa Học, Thực Nghiệm kiểm chứng các vật bên ngoài, còn các Thiền Sư Đông Phương kiểm soi khám phá ngay trong thân mạng mình để biết vũ trụ.
Điều mà người tu hành lẫn người thế gian cần biết, Đức Trí của Chư Phật quá siêu đẳng, đã từng đem lại nguồn sống và hạnh phúc cho tứ loài mà tứ loài chẳng hay biết.
Bậc Chánh Giác chỉ sử dụng thần thông như một phương tiện khi cần thiết. Chư vị cũng không muốn những mầu nhiệm của vũ trụ được sử dụng để tiết lộ cho kẻ phàm tục đầy kiêu ngạo biết. Làm xong Ngài âm thầm ra đi, không cần chúng sanh tranh cãi đúng sai, không cần ở lại hưởng gì của thế gian, miễn sao tận độ chúng sanh an lành là đủ.
TỪ Đâu Ta đến
THỊ xuất cư nhân
DI truyền bảo pháp
LẠC quốc an khương
VƯƠNG Triều hướng thượng
TÔN giả cúng dường
PHẬT Vương minh chứng
Lần Hạ Sanh này, Đức Di Lạc lấy danh hiệu Quảng An tự
Hoằng Giáo pháp hiệu: Hải Lạc, khai Đạo khắp nơi. Hôm nay thời điểm đã đến, khi
ghi lại sự kiện lịch sử hi hữu này, tôi mong nhân sinh cùng quý vị chân tử nào
nhận chân được Đời là bể khổ vô tận, là giả tạm, hãy dõng mãnh phát tâm cầu Đạo
Giác Ngộ, thoát khỏi Sanh Tử Luân Hồi. Dù của cải giàu có chất đầy cả thế gian
này, khi nhắm mắt cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Lại không biết mình đi về
đâu mới là điều sầu khổ không tả hết.
Lúc 9 giờ sáng 15.11âl. Mậu Thân (1968) tức ngày
03.01.1969 dl Phật lịch 2511
Từ Cung Trời Đâu Suất, Ngài mặc chiếc áo tràng dài, rộng, màu thanh thiên tức màu xanh da trời tươi đẹp, hai bên có Chư Thiên, Chư Long Thần Hộ Pháp, Chư Hộ Pháp Bồ Tát, Chư Bồ Tát cung nghinh theo tiễn. Ngài bước xuống thế giới Ta Bà này đến giáp ranh tầng khí quyển, Chư Thiên, Chư Long Thần Hộ Pháp nhìn thấy bụi hồng trần bao phủ dày đặc, đầy chất bẩn, tất cả đều dừng lại, cung kính chiêm bái Ngài và không dám đi theo nữa.
Chỉ một mình Ngài đi thẳng đến Châu Bình thuộc miền nam, nước Việt Nam. Ngài được hạ sanh tại rừng lá, chòi lá dừa nước do bà Ngô thị Ri phụng mệnh hạ sanh. Khi bà vừa hạ sanh ra một bé trai, Ngài liền nghiêng mình khẽ nhẹ bước vào thân chú bé.
Từ Cung Trời Đâu Suất, Ngài mặc chiếc áo tràng dài, rộng, màu thanh thiên tức màu xanh da trời tươi đẹp, hai bên có Chư Thiên, Chư Long Thần Hộ Pháp, Chư Hộ Pháp Bồ Tát, Chư Bồ Tát cung nghinh theo tiễn. Ngài bước xuống thế giới Ta Bà này đến giáp ranh tầng khí quyển, Chư Thiên, Chư Long Thần Hộ Pháp nhìn thấy bụi hồng trần bao phủ dày đặc, đầy chất bẩn, tất cả đều dừng lại, cung kính chiêm bái Ngài và không dám đi theo nữa.
Chỉ một mình Ngài đi thẳng đến Châu Bình thuộc miền nam, nước Việt Nam. Ngài được hạ sanh tại rừng lá, chòi lá dừa nước do bà Ngô thị Ri phụng mệnh hạ sanh. Khi bà vừa hạ sanh ra một bé trai, Ngài liền nghiêng mình khẽ nhẹ bước vào thân chú bé.
Cha Ngài tên là: Trần Văn Kỷ đặt tên cho Ngài là Trần
thế Hưng, từ đó ngài thấy khổ nên khóc
hoài không nín, nên đặt lại tên là Trần văn Chuyện (Truyện). Tứ Chúng Pháp Tạng
tức chân tử của Ngài, hàng năm cứ đến ngày 15 tháng 11 Âm lịch đều sum vầy về
nơi Vạn An Tự của Ngài làm Đại Lễ mừng Đản Sanh Ngài.
Từ cõi Trời Đâu Suất, Ngài đi vào bầu khí quyển và các
tầng mây đến thế gian. “Đương Lai Sanh Hạ”. Từ lâu Kinh Phật Giáo vẫn thường
dùng để chờ đợi Đức Di Lạc, nay Ngài ghi bút cũng là nhắc cho thế gian biết hiện
nay đã là Hạ Kiếp rất hợp thời cơ cứu đời của Ngài.
“Ta có nói vẫn lời dư dã
Ngày hôm nay thư thả như nhiên”
Ngài biết dù Ngài có nói thực, thời này vẫn là lời nói thừa, chúng sinh điên đảo chẳng tin. Phần Ngài vẫn bình thản theo lời đã nguyện.
“Phú cho Mạt Thế vẹn tuyền”
Của Như Lai Dụng, một phiên diễn tuồng”
Thời Mạt Kiếp thế giới muốn phát sinh độc hại như thế nào cũng mặc sức, còn Ngài đã biết được nó là diễn cảnh một thời của Như Lai để tiến đến Thượng Kiếp.
“Thiện Chân Tử chính nguồn an ủi
... Chung vui hoàn giác, nổi niềm Tôi mong”
Tuy thế gian diễn cảnh độc nhiễm tùy thích, nhưng Ngài vẫn còn niềm vui là số Chân Tử cầu giác ngộ đang theo Ngài. Long Hoa mà hầu hết những bậc tu trông chờ chính là:
ĐẠO GIÁO THIÊN ĐỒNG
“Ta có nói vẫn lời dư dã
Ngày hôm nay thư thả như nhiên”
Ngài biết dù Ngài có nói thực, thời này vẫn là lời nói thừa, chúng sinh điên đảo chẳng tin. Phần Ngài vẫn bình thản theo lời đã nguyện.
“Phú cho Mạt Thế vẹn tuyền”
Của Như Lai Dụng, một phiên diễn tuồng”
Thời Mạt Kiếp thế giới muốn phát sinh độc hại như thế nào cũng mặc sức, còn Ngài đã biết được nó là diễn cảnh một thời của Như Lai để tiến đến Thượng Kiếp.
“Thiện Chân Tử chính nguồn an ủi
... Chung vui hoàn giác, nổi niềm Tôi mong”
Tuy thế gian diễn cảnh độc nhiễm tùy thích, nhưng Ngài vẫn còn niềm vui là số Chân Tử cầu giác ngộ đang theo Ngài. Long Hoa mà hầu hết những bậc tu trông chờ chính là:
ĐẠO GIÁO THIÊN ĐỒNG
ĐẠO Giáo thông Thiên vũ trụ đồng
GIÁO duyên phàm Thánh sanh hư không
THIÊN ban sắc lệnh quyền nhất thống
ĐỒNG danh đồng hiệu chứng hư không.
Còn Đức Di Lạc của quá khứ nay ẩn dưới danh hiệu Quảng An, Hoằng Giáo, Hải Lạc.
Lãnh đạo Pháp Tạng làm chủ mối đạo, đâu đó cũng do Như Lai báo trước, căn cơ của chúng sinh thời Mạt Kiếp, Phật ra đời mà chúng sinh không gặp được. Chỉ công đức Chư Tổ, tâm rỗng rang, lại có tâm tu cầu Giác Ngộ mới có Đại Duyên Lành đến được với Ngài mà thôi.
Ngài dạy tiếp: Tôi dùng thần thông hiện đầy đủ 32 tướng tốt giống Chư Phật rất dễ, nhưng thời Mạt Pháp chúng sinh đang ưa chuộng sắc tướng, âm thinh mà hiện thân như vậy, bá tánh chỉ vào cúng lạy, chớ không tu sửa tánh xấu thì đâu có ích lợi gì. Ngài dùng công năng trong vô lượng kiếp quá khứ, tận độ chúng sanh trải qua nhiều kiếp tích lũy công đức. Kiếp này Hiển Thị Phật Thân xây dựng Quốc Độ và tạo dựng thời Thượng Kiếp nơi cõi Ta Bà thế giới này. Từ nay, cứ mỗi giáp tức 12 năm, thế giới sẽ biến đổi dần dần đến thanh bình, con người sẽ thanh nhàn, thư thả và có đạo đức trở lại.
Kinh Phật tự chính Ngài ghi bút lưu lại hiện còn đầy đủ. Để chứng minh Ngài đã thị hiện Ấn là ấn chứng vũ trụ nhân sinh.
Thời Đông Độ: Thời đồng hóa nhân sinh, hiện thân cư sĩ, dìu dắt bậc tu về với Chân Tôn Hiện Giác.
Tây Phương ý nói Cõi Trời Đâu Suất đầy an vui, an lạc trong ánh Đạo vàng.
Đông Độ Đương Lai đã mở màn: Ngài Hạ Sanh tại Đông Phương, Đông Độ còn có nghĩa Xuất Cư Nhân Hạnh (xuất cư sĩ). Đương Lai: Đức Di Lạc đã mở Đạo.
Ngài dụng đủ phương tiện tuyệt mỹ để chỉ ĐỜI LÀ ĐẠO LUÔN SONG HÀNH, luôn hiện như hình với bóng, tuy hai nhưng chỉ có một Tướng, Ngài tùy thuận cốt đưa nhân sinh về một lối tu duy nhất là Giác Ngộ.
Khi Ngài mở màn khai đạo, tứ loài đang gia tăng cường độ, đua tranh sát phạt nhau hỗn loạn, triền miên sống trong cơn mê.
“Ta đi Tây Độ... Ta lại Đông Phương”... Hóa thân Đức Quảng An Hải Lạc hiện nay chính là Đức Di Lạc từ Thiên Thừa Hạnh (xuất gia) thuở trước, nay hiện Xuất Cư Nhân Hạnh (tại gia), mở màng vô minh cho pháp tu an lạc mới của thời Mạt Pháp. Ngài hòa hợp cho nhân sinh dụng nghe, thấy, biết trong đời để tu hành, chuyển cái Nghe, Thấy, Biết trở thành vạn pháp không mắc miếu. Thực hiện được con người sống an lành, hạnh phúc, gia đình ổn định, đất nước an lạc.
Ngài thường đi Khai Đạo khắp nơi, Cũng có một số tu sĩ xuất gia đến gặp Ngài, đọc kinh sách giải thoát của Ngài. Họ chỉ biết Ngài là ông Thầy chùa Tại gia. Suốt lộ trình Ngài không hề có một tu sĩ nào tìm hiểu pháp môn giải thoát, cũng không quan tâm, lại còn xem lối tu này không cần thiết và hoàn toàn xa lạ.
Song song với việc dạy đạo cho Tứ Chúng chung quanh, Ngài còn một Đại Nguyện khó khăn nữa, đó là quyết đem Bảo Pháp của Chư Phật xây đắp cho thế gian, chuyển từ Phương Đông sang Phương Tây, cho họ có lối tu thực tiễn sửa tánh, giải bỏ đố tật xấu, hóa giải hoàn cảnh đến minh tâm thoát khỏi khổ ải, ngay trong mỗi mỗi gia đình. Việc làm chuyển thế giữa lúc này, không một bậc lãnh đạo tôn giáo nào hiểu gì cả.
“ Chư Thiên mừng rỡ vỗ tay”
Vì sao? Ở cung trời đâu xuất, Chư vị Chư Phật đang quan sát theo dõi chuyến Hạ Lai của Ngài. Chư Phật là những bậc ở ngoài trái đất của chúng ta, họ rất nhạy cảm. Từ quá khứ cho đến vị lai rất giao cảm, tất cả sự di chuyển điều động vạn pháp xuất hiện hay lưu hoàn thảy đều tỏ thông liễu ngộ, chư Phật nhìn thấy vũ trụ, nhân sinh an lành, đến thời Hạ Lai Mạt Kiếp địa ngục phát sinh, nghiệp đau khổ tràn đầy liền nhìn thấy được có Đại Lực cứu độ tứ loài nên Chư Phật mừng rỡ vỗ tay.
“Nhơn Địa ngơ ngẩn châu mày thở than”
“Nhân sinh đi đứng ngỡ ngàng”
Vì sao? Vì nhân sinh bị cuộc sống đảo loạn, từ có hóa không, từ an ổn đến hỗn loạn, từ sum họp đến ly tan, từ nơi mát mẻ hóa nóng bức, từ nơi êm ấm hóa không nhà cửa sống lang thang. Nhân sinh cho đến bậc tu mất thăng bằng, không còn định hướng, không còn tin Phật đúng đắn, chạy theo Hỏa Ngục, chạy đến chân trời mới... ai ai cũng kinh ngạc, lo lắng, bỡ ngỡ, liều lĩnh.
“Các hàng Bồ Tát cười vang vui mừng”
Hàng Thánh Hiền, Bồ Tát nguyện đi trong “Phổ Môn Phẩm” nên đứng trước hoàn cảnh khắc nghiệt thân tâm vẫn ghi nhận và rỗng rang vui mừng. Độ khổ là món ăn của hàng Bồ Tát nên vui mừng chịu tận theo vết chân Chư Phật.
“Tam giới rung chuyển chưa ngừng”
Tam giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Các Cõi Trời này thấy thế gian bị Hỏa Ngục phất cũng lo âu, bàng hoàng, toàn thân chư vị ở các Cõi này rung chuyển đau đớn theo.
Ngài biết chẳng qua chỉ là diễn ảo của thế gian và lần Nhất Sanh Bổn Xứ này, Ngài thành Phật Quả mãi mãi xinh tươi bất diệt.
“Thế nhân cầu đạo chân thành”
Ngài đã biết thế nhân hiện nay tu theo Đạo Phật số lượng rất đông, hầu hết đều nương tựa vào Tăng Ni ở chùa, cốc núi rừng, lòng rất thành tâm cầu Đạo vì ngao ngán cuộc đời. Riêng Ngài vẫn than:
“Long Hoa nào rõ trở thành đảo điên”
Câu thơ này cho biết quá rõ Đức Di Lạc đã ra đời, khai mở Long Hoa, dạy Đạo Đức cho chúng sinh đang sống trầm luân trong bể khổ đến Bờ Giác. Không một ai ở các tôn giáo chờ đợi Ngài, nhận được lối tu thực tiễn của thời Mạt Kiếp: Tự tánh tỏ tánh, hóa giải hoa pháp tánh. Trái lại, đảo điên, ảo tưởng chờ núi Thất Sơn nổ.
Thất Sơn không nổ, mà chỉ khai mở núi có đường vào lâu đài thôi.
Đến đây Ngài chỉ thẳng, thân Quảng An kiếp này chính là thân phàm Long Thọ thật đúng đắn. Thân Long Thọ ngày xưa của một kiếp, chính là thân Di Lạc đây đang hiện tướng ở Ta Bà thế giới này.
“Còn tâm óc trí của Tiên, Thánh, Thần”
Tiên, Thánh, Thần là những bậc có cái nhìn nhạy cảm hơn thế gian, lời nói đây còn sáng suốt tỉnh táo như óc trí của Tiên, Thánh, Thần vậy. Ngài chỉ thẳng, giác ngộ chính nơi thân tâm của mình sao lại không nhận còn vọng cầu bên ngoài làm chi. Lời này là của Chư Phật thật sự.
“Thời này Chư Phật ra đời duy nhất đem đến nhân sinh trực chỉ hoàn giác. Đó cũng là Ấn Chỉ của Ba đời Phật. Theo lời Khai thị của Đức Quảng An, thời này là thời Hạ Kiếp, Chánh Pháp bị Mạt Pháp ngự trị lan tràn. Bậc tu chuộng cái học, chuộng nghiên cứu kinh Phật, chuộng sắc tướng âm thanh cầu đạo trở thành Bị Giác.
Ngài tạo ra Đạo mới cấp cao thượng đẳng hơn đó là Đạo Pháp Dân Tộc, tu theo con đường Tri Kiến Giải Thoát, con đường Tự Giác theo Y Tôn Y Chỉ Ba đời Phật.
“Thị hiện Xuất Cư Nhân Hạnh Chỉ-Ấn-Hoàn”
Ngài cho thế nhân biết rõ ràng: Ra đời với Hạnh Xuất Cư tại gia còn gọi là Xuất Cư Nhân Hạnh.
Chỉ: Trực chỉ
Ấn: Ấn Chứng vũ trụ nhân sinh.
Hoàn: Giác hoàn, hoàn tất ba đời Phật hiện thân.
Ngày nay, đa số bậc tu không theo Ấn Chỉ trên làm cho Đạo Phật mang tiếng tiêu cực hay lớp tu ngoại giáo tế lễ đưa con người tín tâm vào nơi tu hành cuồng tín, cầu vái van xin hơn là chính bản thân sửa tánh, lập Thiện Căn hóa giải Ma Lực.
“Phật ra đời có hai lối dụng”
Một lối không, có nghĩa xuất gia ở chùa, cốc không có vợ, chồng, con cái nên tách khỏi ràng buộc của gia đình. Miễn tâm dung thông, không nhiễm trước ngoại cảnh vẫn hoàn giác.
Một lối có, tức xuất Cư Nhân Hạnh, Sống chung với gia đình người thân có gia đình có chồng, vợ, con cái, trăm chiều ngược xuôi của bối cảnh gia đình, khi vui lúc buồn, khi sướng lúc khổ... vạn pháp diễn cảnh muôn ngàn lối trong đời sống. Miễn tâm vào ra giới không nhiễm trước vẫn giác ngộ.
Dù tại gia hay xuất gia, tu đúng con đường trực giác vẫn giác ngộ. Phần Ngài chọn Xuất Cư tại gia, sống có gia đình. Giới tu xuất gia ở chùa gặp Ngài bỡ ngỡ không tin.
Bậc tu xuất gia còn gọi Thiên Thừa Hạnh tiêu biểu cho phái tu Thiền Tịnh, chủ về Tịnh để Độ nhưng cũng phải Tín-Hạnh-Nguyện nơi Văn- Tư- Tu tức vạn pháp, cốt sống động mà hóa giải, dần dần tỏ vô minh không còn nhiễm trở về Tịnh Hoàn Giác.
Bằng sống yên ổn, tránh đụng chạm dù có Tịnh cũng là Tịnh Biệt, một lối tu nguy hại, không bao giờ đến bờ bến Giác. Lối tu xuất ly tránh dơ chọn sạch của bậc xuất gia vô tình trở thành Tiên, Thần Trí không có hoàn giác bao giờ. Đức Di Lạc xuất Chánh Định gặp Đức A Di Đà Phật
Còn Đức Di Lạc của quá khứ nay ẩn dưới danh hiệu Quảng An, Hoằng Giáo, Hải Lạc.
Lãnh đạo Pháp Tạng làm chủ mối đạo, đâu đó cũng do Như Lai báo trước, căn cơ của chúng sinh thời Mạt Kiếp, Phật ra đời mà chúng sinh không gặp được. Chỉ công đức Chư Tổ, tâm rỗng rang, lại có tâm tu cầu Giác Ngộ mới có Đại Duyên Lành đến được với Ngài mà thôi.
Ngài dạy tiếp: Tôi dùng thần thông hiện đầy đủ 32 tướng tốt giống Chư Phật rất dễ, nhưng thời Mạt Pháp chúng sinh đang ưa chuộng sắc tướng, âm thinh mà hiện thân như vậy, bá tánh chỉ vào cúng lạy, chớ không tu sửa tánh xấu thì đâu có ích lợi gì. Ngài dùng công năng trong vô lượng kiếp quá khứ, tận độ chúng sanh trải qua nhiều kiếp tích lũy công đức. Kiếp này Hiển Thị Phật Thân xây dựng Quốc Độ và tạo dựng thời Thượng Kiếp nơi cõi Ta Bà thế giới này. Từ nay, cứ mỗi giáp tức 12 năm, thế giới sẽ biến đổi dần dần đến thanh bình, con người sẽ thanh nhàn, thư thả và có đạo đức trở lại.
Kinh Phật tự chính Ngài ghi bút lưu lại hiện còn đầy đủ. Để chứng minh Ngài đã thị hiện Ấn là ấn chứng vũ trụ nhân sinh.
Thời Đông Độ: Thời đồng hóa nhân sinh, hiện thân cư sĩ, dìu dắt bậc tu về với Chân Tôn Hiện Giác.
Tây Phương ý nói Cõi Trời Đâu Suất đầy an vui, an lạc trong ánh Đạo vàng.
Đông Độ Đương Lai đã mở màn: Ngài Hạ Sanh tại Đông Phương, Đông Độ còn có nghĩa Xuất Cư Nhân Hạnh (xuất cư sĩ). Đương Lai: Đức Di Lạc đã mở Đạo.
Ngài dụng đủ phương tiện tuyệt mỹ để chỉ ĐỜI LÀ ĐẠO LUÔN SONG HÀNH, luôn hiện như hình với bóng, tuy hai nhưng chỉ có một Tướng, Ngài tùy thuận cốt đưa nhân sinh về một lối tu duy nhất là Giác Ngộ.
Khi Ngài mở màn khai đạo, tứ loài đang gia tăng cường độ, đua tranh sát phạt nhau hỗn loạn, triền miên sống trong cơn mê.
“Ta đi Tây Độ... Ta lại Đông Phương”... Hóa thân Đức Quảng An Hải Lạc hiện nay chính là Đức Di Lạc từ Thiên Thừa Hạnh (xuất gia) thuở trước, nay hiện Xuất Cư Nhân Hạnh (tại gia), mở màng vô minh cho pháp tu an lạc mới của thời Mạt Pháp. Ngài hòa hợp cho nhân sinh dụng nghe, thấy, biết trong đời để tu hành, chuyển cái Nghe, Thấy, Biết trở thành vạn pháp không mắc miếu. Thực hiện được con người sống an lành, hạnh phúc, gia đình ổn định, đất nước an lạc.
Ngài thường đi Khai Đạo khắp nơi, Cũng có một số tu sĩ xuất gia đến gặp Ngài, đọc kinh sách giải thoát của Ngài. Họ chỉ biết Ngài là ông Thầy chùa Tại gia. Suốt lộ trình Ngài không hề có một tu sĩ nào tìm hiểu pháp môn giải thoát, cũng không quan tâm, lại còn xem lối tu này không cần thiết và hoàn toàn xa lạ.
Song song với việc dạy đạo cho Tứ Chúng chung quanh, Ngài còn một Đại Nguyện khó khăn nữa, đó là quyết đem Bảo Pháp của Chư Phật xây đắp cho thế gian, chuyển từ Phương Đông sang Phương Tây, cho họ có lối tu thực tiễn sửa tánh, giải bỏ đố tật xấu, hóa giải hoàn cảnh đến minh tâm thoát khỏi khổ ải, ngay trong mỗi mỗi gia đình. Việc làm chuyển thế giữa lúc này, không một bậc lãnh đạo tôn giáo nào hiểu gì cả.
“ Chư Thiên mừng rỡ vỗ tay”
Vì sao? Ở cung trời đâu xuất, Chư vị Chư Phật đang quan sát theo dõi chuyến Hạ Lai của Ngài. Chư Phật là những bậc ở ngoài trái đất của chúng ta, họ rất nhạy cảm. Từ quá khứ cho đến vị lai rất giao cảm, tất cả sự di chuyển điều động vạn pháp xuất hiện hay lưu hoàn thảy đều tỏ thông liễu ngộ, chư Phật nhìn thấy vũ trụ, nhân sinh an lành, đến thời Hạ Lai Mạt Kiếp địa ngục phát sinh, nghiệp đau khổ tràn đầy liền nhìn thấy được có Đại Lực cứu độ tứ loài nên Chư Phật mừng rỡ vỗ tay.
“Nhơn Địa ngơ ngẩn châu mày thở than”
“Nhân sinh đi đứng ngỡ ngàng”
Vì sao? Vì nhân sinh bị cuộc sống đảo loạn, từ có hóa không, từ an ổn đến hỗn loạn, từ sum họp đến ly tan, từ nơi mát mẻ hóa nóng bức, từ nơi êm ấm hóa không nhà cửa sống lang thang. Nhân sinh cho đến bậc tu mất thăng bằng, không còn định hướng, không còn tin Phật đúng đắn, chạy theo Hỏa Ngục, chạy đến chân trời mới... ai ai cũng kinh ngạc, lo lắng, bỡ ngỡ, liều lĩnh.
“Các hàng Bồ Tát cười vang vui mừng”
Hàng Thánh Hiền, Bồ Tát nguyện đi trong “Phổ Môn Phẩm” nên đứng trước hoàn cảnh khắc nghiệt thân tâm vẫn ghi nhận và rỗng rang vui mừng. Độ khổ là món ăn của hàng Bồ Tát nên vui mừng chịu tận theo vết chân Chư Phật.
“Tam giới rung chuyển chưa ngừng”
Tam giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Các Cõi Trời này thấy thế gian bị Hỏa Ngục phất cũng lo âu, bàng hoàng, toàn thân chư vị ở các Cõi này rung chuyển đau đớn theo.
Ngài biết chẳng qua chỉ là diễn ảo của thế gian và lần Nhất Sanh Bổn Xứ này, Ngài thành Phật Quả mãi mãi xinh tươi bất diệt.
“Thế nhân cầu đạo chân thành”
Ngài đã biết thế nhân hiện nay tu theo Đạo Phật số lượng rất đông, hầu hết đều nương tựa vào Tăng Ni ở chùa, cốc núi rừng, lòng rất thành tâm cầu Đạo vì ngao ngán cuộc đời. Riêng Ngài vẫn than:
“Long Hoa nào rõ trở thành đảo điên”
Câu thơ này cho biết quá rõ Đức Di Lạc đã ra đời, khai mở Long Hoa, dạy Đạo Đức cho chúng sinh đang sống trầm luân trong bể khổ đến Bờ Giác. Không một ai ở các tôn giáo chờ đợi Ngài, nhận được lối tu thực tiễn của thời Mạt Kiếp: Tự tánh tỏ tánh, hóa giải hoa pháp tánh. Trái lại, đảo điên, ảo tưởng chờ núi Thất Sơn nổ.
Thất Sơn không nổ, mà chỉ khai mở núi có đường vào lâu đài thôi.
Đến đây Ngài chỉ thẳng, thân Quảng An kiếp này chính là thân phàm Long Thọ thật đúng đắn. Thân Long Thọ ngày xưa của một kiếp, chính là thân Di Lạc đây đang hiện tướng ở Ta Bà thế giới này.
“Còn tâm óc trí của Tiên, Thánh, Thần”
Tiên, Thánh, Thần là những bậc có cái nhìn nhạy cảm hơn thế gian, lời nói đây còn sáng suốt tỉnh táo như óc trí của Tiên, Thánh, Thần vậy. Ngài chỉ thẳng, giác ngộ chính nơi thân tâm của mình sao lại không nhận còn vọng cầu bên ngoài làm chi. Lời này là của Chư Phật thật sự.
“Thời này Chư Phật ra đời duy nhất đem đến nhân sinh trực chỉ hoàn giác. Đó cũng là Ấn Chỉ của Ba đời Phật. Theo lời Khai thị của Đức Quảng An, thời này là thời Hạ Kiếp, Chánh Pháp bị Mạt Pháp ngự trị lan tràn. Bậc tu chuộng cái học, chuộng nghiên cứu kinh Phật, chuộng sắc tướng âm thanh cầu đạo trở thành Bị Giác.
Ngài tạo ra Đạo mới cấp cao thượng đẳng hơn đó là Đạo Pháp Dân Tộc, tu theo con đường Tri Kiến Giải Thoát, con đường Tự Giác theo Y Tôn Y Chỉ Ba đời Phật.
“Thị hiện Xuất Cư Nhân Hạnh Chỉ-Ấn-Hoàn”
Ngài cho thế nhân biết rõ ràng: Ra đời với Hạnh Xuất Cư tại gia còn gọi là Xuất Cư Nhân Hạnh.
Chỉ: Trực chỉ
Ấn: Ấn Chứng vũ trụ nhân sinh.
Hoàn: Giác hoàn, hoàn tất ba đời Phật hiện thân.
Ngày nay, đa số bậc tu không theo Ấn Chỉ trên làm cho Đạo Phật mang tiếng tiêu cực hay lớp tu ngoại giáo tế lễ đưa con người tín tâm vào nơi tu hành cuồng tín, cầu vái van xin hơn là chính bản thân sửa tánh, lập Thiện Căn hóa giải Ma Lực.
“Phật ra đời có hai lối dụng”
Một lối không, có nghĩa xuất gia ở chùa, cốc không có vợ, chồng, con cái nên tách khỏi ràng buộc của gia đình. Miễn tâm dung thông, không nhiễm trước ngoại cảnh vẫn hoàn giác.
Một lối có, tức xuất Cư Nhân Hạnh, Sống chung với gia đình người thân có gia đình có chồng, vợ, con cái, trăm chiều ngược xuôi của bối cảnh gia đình, khi vui lúc buồn, khi sướng lúc khổ... vạn pháp diễn cảnh muôn ngàn lối trong đời sống. Miễn tâm vào ra giới không nhiễm trước vẫn giác ngộ.
Dù tại gia hay xuất gia, tu đúng con đường trực giác vẫn giác ngộ. Phần Ngài chọn Xuất Cư tại gia, sống có gia đình. Giới tu xuất gia ở chùa gặp Ngài bỡ ngỡ không tin.
Bậc tu xuất gia còn gọi Thiên Thừa Hạnh tiêu biểu cho phái tu Thiền Tịnh, chủ về Tịnh để Độ nhưng cũng phải Tín-Hạnh-Nguyện nơi Văn- Tư- Tu tức vạn pháp, cốt sống động mà hóa giải, dần dần tỏ vô minh không còn nhiễm trở về Tịnh Hoàn Giác.
Bằng sống yên ổn, tránh đụng chạm dù có Tịnh cũng là Tịnh Biệt, một lối tu nguy hại, không bao giờ đến bờ bến Giác. Lối tu xuất ly tránh dơ chọn sạch của bậc xuất gia vô tình trở thành Tiên, Thần Trí không có hoàn giác bao giờ. Đức Di Lạc xuất Chánh Định gặp Đức A Di Đà Phật
Tôi nghe như vầy: Trước khi khai đạo, Đức Minh Vương
hóa thân Đức Di Lạc xuất Chánh Định gặp Đức A Di Đà Phật.
Đức A Di Đà liền hỏi:
- Thời Hạ kiếp này con dùng phương tiện gì để Đồng Độ chúng sinh?
Đức Di Lạc thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn, thời này nhân sinh tác tạo quá mức, con phải Đồng Độ theo Xuất Cư Nhân Hạnh. Dụng sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp trong thế gian, dạy cho chúng sinh không nhiễm.
Đức A Di Đà Phật trả lời:
- Đúng, chính xác lắm. Thời Mạt Kiếp này con phải chuyển thế như vậy.
Đức Di Lạc :
- Bạch Đức Thế Tôn, thời này lắm bậc chứng tu, tu chứng dẫy đầy khó phân.
Đức A Di Đà :
- Con phải cố gắng, thời này Qủa Phật độc nhất vô nhị đó con. Ta sẽ theo dõi giúp đỡ cho con.
Đức Di Lạc bái biệt Đức Thế Tôn và trở về.
Đức A Di Đà liền hỏi:
- Thời Hạ kiếp này con dùng phương tiện gì để Đồng Độ chúng sinh?
Đức Di Lạc thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn, thời này nhân sinh tác tạo quá mức, con phải Đồng Độ theo Xuất Cư Nhân Hạnh. Dụng sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp trong thế gian, dạy cho chúng sinh không nhiễm.
Đức A Di Đà Phật trả lời:
- Đúng, chính xác lắm. Thời Mạt Kiếp này con phải chuyển thế như vậy.
Đức Di Lạc :
- Bạch Đức Thế Tôn, thời này lắm bậc chứng tu, tu chứng dẫy đầy khó phân.
Đức A Di Đà :
- Con phải cố gắng, thời này Qủa Phật độc nhất vô nhị đó con. Ta sẽ theo dõi giúp đỡ cho con.
Đức Di Lạc bái biệt Đức Thế Tôn và trở về.
Đức Di Lạc xuất chánh Định gặp Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
Tôi nghe như vầy:
Trên đường hành Đạo, mỗi lần gặp pháp rối, trắc ẩn quá mức, Ngài nhớ lại những lúc gay cấn mà Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã gặp phải thì liền khi đó, luồng Hào Quang xuất hiện và Đức Bổn Sư Thị Hiện trước mặt Đức Di Lặc. Ngài vui mừng thi lễ Đức Bổn Sư, thầy trò đàm đạo và Đức Bổn Sư chỉ giáo cho Ngài. Dưới mắt Thiền Sư, có cặp mắt Như Lai Nhãn Tạng nhìn xa về quá khứ, Sự lầm chấp của Chúng Sinh đối với Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật . Khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 41 tuổi, một chân tử của Ngài tên Purna đã vẽ truyền thần chân dung của Ngài. Bức chân dung này được xem như một bảo vật và hiện đang được lưu trữ tại Bảo Tàng Viện Hoàng Gia Anh.
Suốt đời hành Đạo, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn để tóc ngắn gọn như chân dung ở bên cạnh chớ không có cạo sạch tóc như Tăng Ni hậu lai . Nhắc lại buổi cơm cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà dâng cúng trong đó có một miếng thịt nướng. Điều này cho biết Ngài không có chuyên ròng ăn chay. Đức Di Lạc còn dạy rằng dù Đức Bổn Sư có quay về sống với vợ, con cũng không hề bị mất Chánh Báo của Ngài. Do lớp tu sau này nặng về Thiên Pháp nên phát sinh cạo đầu ăn chay, xa rời thế gian, sống theo trừu tượng dần dần làm xa lìa Chánh Pháp. Do đó, dẫn tới sự tu hành không còn y Tôn Chỉ của Phật, lại nặng Sắc Tướng Âm Thanh sa vào Mạt Pháp cho đến ngày nay.
Do sự lầm chấp trên nên khi Đức Di Lạc Hạ Lai khai đạo theo Xuất Cư Nhân Hạnh mà không có một Tăng Ni nào theo tu con đường Giác Ngộ với ngài.
Trên đường hành Đạo, mỗi lần gặp pháp rối, trắc ẩn quá mức, Ngài nhớ lại những lúc gay cấn mà Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã gặp phải thì liền khi đó, luồng Hào Quang xuất hiện và Đức Bổn Sư Thị Hiện trước mặt Đức Di Lặc. Ngài vui mừng thi lễ Đức Bổn Sư, thầy trò đàm đạo và Đức Bổn Sư chỉ giáo cho Ngài. Dưới mắt Thiền Sư, có cặp mắt Như Lai Nhãn Tạng nhìn xa về quá khứ, Sự lầm chấp của Chúng Sinh đối với Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật . Khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 41 tuổi, một chân tử của Ngài tên Purna đã vẽ truyền thần chân dung của Ngài. Bức chân dung này được xem như một bảo vật và hiện đang được lưu trữ tại Bảo Tàng Viện Hoàng Gia Anh.
Suốt đời hành Đạo, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn để tóc ngắn gọn như chân dung ở bên cạnh chớ không có cạo sạch tóc như Tăng Ni hậu lai . Nhắc lại buổi cơm cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà dâng cúng trong đó có một miếng thịt nướng. Điều này cho biết Ngài không có chuyên ròng ăn chay. Đức Di Lạc còn dạy rằng dù Đức Bổn Sư có quay về sống với vợ, con cũng không hề bị mất Chánh Báo của Ngài. Do lớp tu sau này nặng về Thiên Pháp nên phát sinh cạo đầu ăn chay, xa rời thế gian, sống theo trừu tượng dần dần làm xa lìa Chánh Pháp. Do đó, dẫn tới sự tu hành không còn y Tôn Chỉ của Phật, lại nặng Sắc Tướng Âm Thanh sa vào Mạt Pháp cho đến ngày nay.
Do sự lầm chấp trên nên khi Đức Di Lạc Hạ Lai khai đạo theo Xuất Cư Nhân Hạnh mà không có một Tăng Ni nào theo tu con đường Giác Ngộ với ngài.
Tuyệt mỹ thay! Đức Thế Tôn đã từng khai thị “Phật pháp
bất ly thế gian giác”. Phật Pháp không thể tách rời thế gian mà tìm đặng sự
giác ngộ. Do đó, trong cuộc sống thường ngày, Đức Minh Vương vẫn luôn dạy các
Chân Tử Đạo-Đời song tu theo vết chân Xuất Cư Nhân Hạnh.
Ngoài choàng lớp Xuất Cư Nhân nhưng bên trong xây nền Chánh Pháp. Còn thời thế Mạt Pháp cực kỳ khó khăn nhưng Ngài cũng quyết giữ lời Nguyện đền đáp ơn Đức Thế Tôn, ơn Chư Phật đang thúc dục Ngài. Vết chân Ngài lưu lại thế gian, còn hai vai một gánh Đạo–Đời, quyết làm tròn bổn nguyện chứ không cần danh vọng. Đối với bậc Trí, hoàn cảnh hổn loạn luôn tìm phương hóa giải vì cho đó là vạn pháp sẽ thoát sinh, nên dù ở Cư Nhân vẫn ung dung tự tại, Vô Ngại Đại Bi Tri Kiến Giải Thoát.
Còn đối với gia đình Ngài, hàng ngày cũng làm các ngành nghề để sinh sống như bao gia đình khác.
Ngoài choàng lớp Xuất Cư Nhân nhưng bên trong xây nền Chánh Pháp. Còn thời thế Mạt Pháp cực kỳ khó khăn nhưng Ngài cũng quyết giữ lời Nguyện đền đáp ơn Đức Thế Tôn, ơn Chư Phật đang thúc dục Ngài. Vết chân Ngài lưu lại thế gian, còn hai vai một gánh Đạo–Đời, quyết làm tròn bổn nguyện chứ không cần danh vọng. Đối với bậc Trí, hoàn cảnh hổn loạn luôn tìm phương hóa giải vì cho đó là vạn pháp sẽ thoát sinh, nên dù ở Cư Nhân vẫn ung dung tự tại, Vô Ngại Đại Bi Tri Kiến Giải Thoát.
Còn đối với gia đình Ngài, hàng ngày cũng làm các ngành nghề để sinh sống như bao gia đình khác.
Đối với Ông Bà cha mẹ, Ngài là một người con luôn tròn
Đạo Hiếu. Tứ chúng theo tu học Ngài, nếu ai ăn chay vẫn giữ, ai không ăn chay vẫn
ăn như ý của mình. Gia đình Ngài cũng không ăn chay, tuỳ duyên tuỳ thời mà ăn,
Đạo là nếp sống tuỳ duyên, đói ăn mệt nghĩ an nhiên Tâm hồn.
Thời Hạ Kiếp này, tất cả các pháp ở thế gian đều hiện cái gì cũng tận. Nó phơi bày chẳng thiếu sót một pháp Ác tận cùng nào. Con người sống nô lệ vật chất, tăng trưởng quá mức. Thấy của cải người khác lấy làm của riêng mình, ai khóc than kêu gào thảm thiết chết cứ mặc kệ, thản nhiên không hề có một chút động tâm thương xót. Tánh xấu, ác tính, thú tính hiện dẫy đầy. Ngài thương xót và bảo nếu không Hạ Lai trần thế, khai đạo chứng minh cho nhân sinh thì tuổi thọ của kiếp người hiện nay còn 80 tuổi một kiếp rồi sẽ hạ dần cho đến khi chỉ còn 10 tuổi một kiếp.
Chính vì vậy mà Ngài đã ban cho tứ chúng, lớp người đại diện nhân thế gặp Ngài, ban đầu tu sửa tánh xấu, tập nhiễm xấu, phải hóa giải để thu nhận cái thần lực sáng tốt tươi, làm tiêu tan dần Ma Lực xấu xa, tâm sẽ được an lạc, không nhiễm độc, thân có sức khỏe, điều hòa. Tuổi thọ tăng dần đến 100 tuổi một kiếp. Ngài cũng đã chứng minh cho tuổi thọ trung bình của một kiếp người là 100 tuổi.
Ngài tùy căn cơ của chân tử mà dìu dắt, dùng đủ phương tiện cứu cánh đến diệu dụng quyết đem Bảo Pháp trao cho chân tử. Ngài đặt những hạt giống Đạo Đức, Giác Ngộ, Giác Ngộ Rốt Ráo lưu lại hậu thế, để sau này sẽ nối tiếp làm sứ giả của Chư Phật truyền cho chúng sinh trực giác.
Thế mới hay, tuy nhân sinh không gặp được Đức Di Lạc Hạ Sanh nhưng muôn sự Chân Thiện Mỹ đầy phúc lạc cũng đã được Ngài sắp đặt, an bài sẵn.
Thời Hạ Kiếp này, tất cả các pháp ở thế gian đều hiện cái gì cũng tận. Nó phơi bày chẳng thiếu sót một pháp Ác tận cùng nào. Con người sống nô lệ vật chất, tăng trưởng quá mức. Thấy của cải người khác lấy làm của riêng mình, ai khóc than kêu gào thảm thiết chết cứ mặc kệ, thản nhiên không hề có một chút động tâm thương xót. Tánh xấu, ác tính, thú tính hiện dẫy đầy. Ngài thương xót và bảo nếu không Hạ Lai trần thế, khai đạo chứng minh cho nhân sinh thì tuổi thọ của kiếp người hiện nay còn 80 tuổi một kiếp rồi sẽ hạ dần cho đến khi chỉ còn 10 tuổi một kiếp.
Chính vì vậy mà Ngài đã ban cho tứ chúng, lớp người đại diện nhân thế gặp Ngài, ban đầu tu sửa tánh xấu, tập nhiễm xấu, phải hóa giải để thu nhận cái thần lực sáng tốt tươi, làm tiêu tan dần Ma Lực xấu xa, tâm sẽ được an lạc, không nhiễm độc, thân có sức khỏe, điều hòa. Tuổi thọ tăng dần đến 100 tuổi một kiếp. Ngài cũng đã chứng minh cho tuổi thọ trung bình của một kiếp người là 100 tuổi.
Ngài tùy căn cơ của chân tử mà dìu dắt, dùng đủ phương tiện cứu cánh đến diệu dụng quyết đem Bảo Pháp trao cho chân tử. Ngài đặt những hạt giống Đạo Đức, Giác Ngộ, Giác Ngộ Rốt Ráo lưu lại hậu thế, để sau này sẽ nối tiếp làm sứ giả của Chư Phật truyền cho chúng sinh trực giác.
Thế mới hay, tuy nhân sinh không gặp được Đức Di Lạc Hạ Sanh nhưng muôn sự Chân Thiện Mỹ đầy phúc lạc cũng đã được Ngài sắp đặt, an bài sẵn.
Lý do tuổi thọ con người thời Mạt Kiếp giảm
Tôi nghe như vầy: Khi khai thị về Vũ Trụ với Con Người,
Đức Minh Vương cho biết, tuổi thọ con người từ lúc khai sinh 8000 tuổi một kiếp,
đến nay chỉ còn lại 100 năm. Tuổi thọ của con người bị giảm dần xuống thấp vì
tư tưởng loạn gọi là “giả tưởng” cùng “tâm ý” ngăn cách quá nhiều trở thành eo
hẹp.
Ngài đã tìm ra con người thời Hiền Kiếp hấp thụ “NGUYÊN TINH” bồi dưỡng thân thể đầy đủ. Đến thời Hạ Kiếp, con người hấp thụ “NGUYÊN TINH” yếu kém, nhiếp thu vào thân thể thiếu hụt mà tuổi thọ phải giảm dần do tánh xấu nhiều.
Con người cùng các nhà khoa học không hề hay biết tuổi thọ bị tiêu giảm là do chính con người tự tạo ra. Chính sự đau khổ, tham lam, nóng giận, sợ sệt trong cuộc sống phức tạp thời Hạ Kiếp làm giảm tuổi thọ. Muốn tuổi thọ tăng dần trở lại, con người cần thư thả thân tâm để tiếp nhận đủ “Nguyên Tinh.”
Các tôn giáo bảo tâm rộng rãi không mắc miếu, tư tưởng thanh cao, trí tuệ thoát sinh là tối cần cho con người. Họ chỉ biết có bấy nhiêu đó là tận cùng. Còn Đức Di Lạc dạy rằng: Thời này Chánh Pháp ra đời, Mạt Pháp sắp tàn canh, Ngài công bố chất “NGUYÊN TINH" cho con người biết nên thực hành làm tuổi thọ tăng mà hưởng lấy. Đối với bậc tu Thiền, việc thu nhận “NGUYÊN TINH” không có gì là khó nhưng nó cũng có hại cho bậc không hiểu rõ pháp môn Thiền. Nếu Thiền say đắm làm thu nhận “NGUYÊN TINH” quá nhiều mà trí tuệ còn kém, tư tưởng còn tham mau thành Tiên, Phật thì bị nguy hại.
Người không tu Thiền khó nhận được chất nguyên tinh nên không khỏe mạnh, không linh động bằng bậc có tu Thiền điều hòa. Bậc Thiền tọa đến mức khá cao thực hành một thời gian sở đắc Chánh Định Tam Muội thì hoàn toàn điều khiển, hoàn toàn sử dụng nguyên tinh. Thiền rất cần thiết cho bậc tu tại gia lẫn xuất gia Trực Giác Pháp Tánh.
Trong đời sống có một con người tối tăm, hay thất bại nhiều trên trường đời nếu Thiền Định đúng, sẽ sáng suốt trở nên thông minh giải quyết việc gì cũng đúng đắn chính xác.
Theo các nhà y học, thân thể con người luôn biến đổi, mỗi ngày có hàng triệu tế bào chết đi được bài tiết ra ngoài và được thay thế bởi hàng triệu tế bào mới sinh ra. Thân thể con người được thay đổi hoàn toàn tế bào mới trong vòng bảy năm rưỡi. Do sự thay đổi đó mà con người đi từ chỗ trẻ đẹp đến chỗ già nua xấu xí theo thời gian.
Có lắm người quyền uy, giàu có tìm đủ phương thức để sống lâu ngang với trời đất nhưng chẳng được kết quả gì. Người Phương Tây cũng lo âu, sợ sệt về cái chết giống như người Phương Đông. Nền y khoa của Phương Tây tìm ra được một loại thuốc nào hay liền thế gian xuất hiện một thứ bệnh ngặt nghèo mới.
Cuối cùng vua chúa và lãnh tụ phương Tây cũng đành chịu thua với cái chết. Riêng tại phương Đông, nhiều bậc Thiền Sư khám phá ngay trong thân mạng mình, đã điều hành được chất Nguyên Tinh nên tuổi già muốn bỏ xác thân hay còn muốn ở tại thế đều tùy ý. Có vị Thiền Sư ngồi trang nghiêm khuyên dạy chân tử mình, rồi báo cho tất cả biết mà ra đi thật kỳ diệu. Họ không có chút sợ sệt lại còn an ủi chân tử của mình và cho biết sẽ đầu thai hóa kiếp khác ở nơi nào nữa.
Ngài đã tìm ra con người thời Hiền Kiếp hấp thụ “NGUYÊN TINH” bồi dưỡng thân thể đầy đủ. Đến thời Hạ Kiếp, con người hấp thụ “NGUYÊN TINH” yếu kém, nhiếp thu vào thân thể thiếu hụt mà tuổi thọ phải giảm dần do tánh xấu nhiều.
Con người cùng các nhà khoa học không hề hay biết tuổi thọ bị tiêu giảm là do chính con người tự tạo ra. Chính sự đau khổ, tham lam, nóng giận, sợ sệt trong cuộc sống phức tạp thời Hạ Kiếp làm giảm tuổi thọ. Muốn tuổi thọ tăng dần trở lại, con người cần thư thả thân tâm để tiếp nhận đủ “Nguyên Tinh.”
Các tôn giáo bảo tâm rộng rãi không mắc miếu, tư tưởng thanh cao, trí tuệ thoát sinh là tối cần cho con người. Họ chỉ biết có bấy nhiêu đó là tận cùng. Còn Đức Di Lạc dạy rằng: Thời này Chánh Pháp ra đời, Mạt Pháp sắp tàn canh, Ngài công bố chất “NGUYÊN TINH" cho con người biết nên thực hành làm tuổi thọ tăng mà hưởng lấy. Đối với bậc tu Thiền, việc thu nhận “NGUYÊN TINH” không có gì là khó nhưng nó cũng có hại cho bậc không hiểu rõ pháp môn Thiền. Nếu Thiền say đắm làm thu nhận “NGUYÊN TINH” quá nhiều mà trí tuệ còn kém, tư tưởng còn tham mau thành Tiên, Phật thì bị nguy hại.
Người không tu Thiền khó nhận được chất nguyên tinh nên không khỏe mạnh, không linh động bằng bậc có tu Thiền điều hòa. Bậc Thiền tọa đến mức khá cao thực hành một thời gian sở đắc Chánh Định Tam Muội thì hoàn toàn điều khiển, hoàn toàn sử dụng nguyên tinh. Thiền rất cần thiết cho bậc tu tại gia lẫn xuất gia Trực Giác Pháp Tánh.
Trong đời sống có một con người tối tăm, hay thất bại nhiều trên trường đời nếu Thiền Định đúng, sẽ sáng suốt trở nên thông minh giải quyết việc gì cũng đúng đắn chính xác.
Theo các nhà y học, thân thể con người luôn biến đổi, mỗi ngày có hàng triệu tế bào chết đi được bài tiết ra ngoài và được thay thế bởi hàng triệu tế bào mới sinh ra. Thân thể con người được thay đổi hoàn toàn tế bào mới trong vòng bảy năm rưỡi. Do sự thay đổi đó mà con người đi từ chỗ trẻ đẹp đến chỗ già nua xấu xí theo thời gian.
Có lắm người quyền uy, giàu có tìm đủ phương thức để sống lâu ngang với trời đất nhưng chẳng được kết quả gì. Người Phương Tây cũng lo âu, sợ sệt về cái chết giống như người Phương Đông. Nền y khoa của Phương Tây tìm ra được một loại thuốc nào hay liền thế gian xuất hiện một thứ bệnh ngặt nghèo mới.
Cuối cùng vua chúa và lãnh tụ phương Tây cũng đành chịu thua với cái chết. Riêng tại phương Đông, nhiều bậc Thiền Sư khám phá ngay trong thân mạng mình, đã điều hành được chất Nguyên Tinh nên tuổi già muốn bỏ xác thân hay còn muốn ở tại thế đều tùy ý. Có vị Thiền Sư ngồi trang nghiêm khuyên dạy chân tử mình, rồi báo cho tất cả biết mà ra đi thật kỳ diệu. Họ không có chút sợ sệt lại còn an ủi chân tử của mình và cho biết sẽ đầu thai hóa kiếp khác ở nơi nào nữa.
Ngài Di Lạc Hạ Sanh lần này, trong một gia đình giòng họ
Trần. Đức Minh Vương khai thị, tôi nghe như vầy:
Thế nhân nghĩ rằng: Đức Di Lạc ra đời ở quốc gia nào là nơi đó do đức độ và oai lực Ngài, làm trở nên đẹp đẽ trang nghiêm, không còn cảnh hỗn loạn. Đất đai đều biến thành của quí như vàng, pha lê, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu, huỳnh châu, bạch quang châu... Còn Thánh ý cho rằng: Ngài tận độ tất cả chúng sanh tánh của Ngài xong, tâm trở nên Đại Thanh Tịnh, thân hóa trang nghiêm trong tứ thời như đi, đứng, nằm, ngồi và làm chủ bảy báu trong vũ trụ.
Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cho đến thời Hạ kiếp này, Đức Di Lạc thành Chánh Qủa Phật chỉ có hai vị này có bảy báu mà thôi. Khi vừa Đản Sanh, Thái Tử Tất Đạt Đa Ngài đã bước đi bảy bước có hiện bảy hoa sen biện minh cho bảy báu. Còn Đức Di Lạc có ghi bài thơ kiếm bảy báu chỉ khi nào cần diệu dụng Chư Phật mới đem ra. Khi đến Cõi Trời, Chư Phật viễn dung xử dụng. Còn Ma Vương, Quỉ Vương đều thất kinh sợ hãi. Kiếm bảy báu chỉ dành Chư Phật mới dùng được mà thôi, khi cần nó xô thành quách, tát biển. Kiếm bảy báu linh động, không nơi nào cần mà chối từ, cốt yếu để phá vô minh.
Con người, ai cũng có bảy báu, nhưng khi còn mê lầm, bảy báu này ẩn, không hiện, khi đạt được Chánh Quả Phật, liền có bảy báu hiện. Bậc có Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi mới tinh thông sử dụng bảy báu. Ba cõi sáu đường kiếm bảy báu này xóa tan. Bảy báu của Phật: Nhất Tâm - Chân Như - Phật Tánh – Pháp Thân – Như Lai Tạng – Pháp Giới – Pháp Tánh.
"Đâu đâu cũng có ao trong, có đủ thứ hoa thơm."
Tâm Ngài đã bình nên đâu đâu cũng trong suốt, còn thân đầy đủ ba thân nên mùi hương trầm lúc nào cũng tỏa ngát.
Thánh ý cho rằng, trong thời gian Ngài hạ sanh đến lúc hành đạo, ai cũng nghe lời nói ngọt ngào đầy đại bi, không biến tánh khác thường như chúng sinh. Lời nói độc không có, ý nói gai độc không còn. Bất cứ chúng sinh gặp Ngài đều ra về thoải mái như đi trên thảm cỏ.
Ngay cả nhiều chúng sinh, ma quỉ độc địa, khi gặp Ngài, lúc ra về cũng thoải mái. Ngài đều lấy Đại Bi cứu độ làm cho ý dữ hóa hiền.
"Người sinh vào cõi này đều là người có duyên lành, sống một đời vô cùng an lạc, không đau khổ, bệnh tật, phiền não."
Ý chúng sanh cho rằng vào được cõi Đức Di Lạc hạ sanh sẽ vô cùng sung sướng không cần tu.
Thánh ý cho rằng: Nếu chúng sanh nào sanh cùng một quốc gia khi Ngài hạ sanh mà có Đại Duyên Lành theo tu pháp môn giải thoát của Ngài, tâm sẽ an lạc, tất không còn đau khổ. Khi có hoàn cảnh hóa giải tâm được an, bịnh tật cũng được tiêu trừ.
"Thân hình đầy đủ oai nghi đẹp đẽ, sống lâu đến mười ngàn tuổi."
Chúng sanh nghĩ rằng khi gặp Phật Di Lạc thân hình xấu trở nên đẹp, lại được sống lâu.
Thánh ý cho rằng: Khi gặp Ngài,tu sửa tánh, thiền định, học giáo pháp một thời tánh trở nên tốt nên tướng phải đổi theo như: mặt mày sáng, tươi đẹp, dáng đi cũng oai nghi. Khi đã được giải thoát sinh tử luân hồi, người sẽ được bất tử, nếu về cõi Trời sống, thọ mười ngàn năm.
"Có đủ thứ mỹ vị ngon lành, còn mặc thì khỏi cần phải dệt vì có thứ cây sinh ra quần áo."
Chúng sinh nghĩ rằng gặp Đức Di Lạc trong nước này không còn thức ăn dở, hôi thúi, còn mặc thì có sẵn khắp nơi khỏi cần tốn tiền lại có áo quần đẹp.
Thánh ý cho rằng: Khi gặp Ngài, dù hoàn cảnh khổ ải, gai góc đến đâu cũng hoan hỷ, vui lòng gánh chịu vì nó là món ăn ngon lành của hàng Bồ Tát Nguyện. Khi đã điều ngự được vạn tánh, tức vạn pháp, sẽ có áo giáp bền, đẹp khỏi cần tìm kiếm, khỏi cần làm vất vả...Cây sinh quần áo, ý nói không còn sự nóng giận, đau khổ, lo sợ nào xâm chiếm nữa. Tâm an lạc, thân trở nên xinh đẹp.
"Đến khi hết số phần thì vào rừng dành cho người đến đó nằm an nghỉ luôn."
Chúng sinh nghĩ rằng khi già chết sẽ được yên ổn.
Thánh ý cho rằng: khi tu đến thanh tịnh, thân hết phần số, ra đi nhẹ như bông. Rừng: ý chỉ nơi nào cũng thanh tịnh đầy khắp.
Ngài cũng đã từng dạy: Nếu chúng sinh có đức tánh tốt, tâm rộng rãi thương người khổ, thường giúp đỡ kẻ hoạn nạn. Gặp Thánh Tăng hồi hướng công đức rồi theo tu hành, thiền định, nếu chưa được giác ngộ cũng có nhiều phước báo tốt đẹp. Nghiệp tốt này sẽ được tái sinh vào nhà quyền quí cao sang, gặt hái được nhiều may mắn, tuổi thọ cao.
Nếu gặp Chư Phật cũng công đức, cũng tu thiền định theo sự chỉ đạo của Ngài, sẽ được quả tốt, được hưởng phước báu trong các Cõi Trời và trong cảnh vua chúa quyền quí cao sang. Nếu giác ngộ sẽ chấm dứt tất cả phiền não, cùng tỏ tường không ô nhiễm kiến dục. Bậc này sẽ có một đời sống trường tồn vĩnh cửu. Nếu giác ngộ rốt ráo sẽ ra khỏi vũ trụ, hoàn toàn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Tuy được giải thoát rốt ráo hết thảy các nghiệp phiền não nhưng phiền não vẫn còn đủ, cả kiến dục vẫn còn đủ vì các pháp vốn như. Nhiều bậc tín tâm tu Phật đang trông đợi Đức Di Lạc ra đời, khai mở Long Hoa vậy Long Hoa là gì?
Tôi nghe Ngài khai thị như vầy:
Long nghĩa là Rồng. Theo truyền thuyết cổ xưa dân tộc Việt Nam là con Rồng Cháu Tiên.
Hoa nghĩa là Hoa Pháp Tánh.
Hoa Pháp Tánh chung gồm tất cả tánh tốt, tánh xấu, gọi là chủng tánh chúng sanh. Chủng tánh chúng sanh vốn lầm mê trong sanh tử luân hồi. Có hoa pháp tánh nên bậc tín tâm mới tự nguyện độ chúng sanh và Chư Phật ra đời cứu độ. Bậc tu không tự độ hoa pháp tánh dù Phật có ra đời chăng cũng không độ được, cho nên ngài tái sanh về đất Việt mình:
Thế nhân nghĩ rằng: Đức Di Lạc ra đời ở quốc gia nào là nơi đó do đức độ và oai lực Ngài, làm trở nên đẹp đẽ trang nghiêm, không còn cảnh hỗn loạn. Đất đai đều biến thành của quí như vàng, pha lê, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu, huỳnh châu, bạch quang châu... Còn Thánh ý cho rằng: Ngài tận độ tất cả chúng sanh tánh của Ngài xong, tâm trở nên Đại Thanh Tịnh, thân hóa trang nghiêm trong tứ thời như đi, đứng, nằm, ngồi và làm chủ bảy báu trong vũ trụ.
Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cho đến thời Hạ kiếp này, Đức Di Lạc thành Chánh Qủa Phật chỉ có hai vị này có bảy báu mà thôi. Khi vừa Đản Sanh, Thái Tử Tất Đạt Đa Ngài đã bước đi bảy bước có hiện bảy hoa sen biện minh cho bảy báu. Còn Đức Di Lạc có ghi bài thơ kiếm bảy báu chỉ khi nào cần diệu dụng Chư Phật mới đem ra. Khi đến Cõi Trời, Chư Phật viễn dung xử dụng. Còn Ma Vương, Quỉ Vương đều thất kinh sợ hãi. Kiếm bảy báu chỉ dành Chư Phật mới dùng được mà thôi, khi cần nó xô thành quách, tát biển. Kiếm bảy báu linh động, không nơi nào cần mà chối từ, cốt yếu để phá vô minh.
Con người, ai cũng có bảy báu, nhưng khi còn mê lầm, bảy báu này ẩn, không hiện, khi đạt được Chánh Quả Phật, liền có bảy báu hiện. Bậc có Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi mới tinh thông sử dụng bảy báu. Ba cõi sáu đường kiếm bảy báu này xóa tan. Bảy báu của Phật: Nhất Tâm - Chân Như - Phật Tánh – Pháp Thân – Như Lai Tạng – Pháp Giới – Pháp Tánh.
"Đâu đâu cũng có ao trong, có đủ thứ hoa thơm."
Tâm Ngài đã bình nên đâu đâu cũng trong suốt, còn thân đầy đủ ba thân nên mùi hương trầm lúc nào cũng tỏa ngát.
Thánh ý cho rằng, trong thời gian Ngài hạ sanh đến lúc hành đạo, ai cũng nghe lời nói ngọt ngào đầy đại bi, không biến tánh khác thường như chúng sinh. Lời nói độc không có, ý nói gai độc không còn. Bất cứ chúng sinh gặp Ngài đều ra về thoải mái như đi trên thảm cỏ.
Ngay cả nhiều chúng sinh, ma quỉ độc địa, khi gặp Ngài, lúc ra về cũng thoải mái. Ngài đều lấy Đại Bi cứu độ làm cho ý dữ hóa hiền.
"Người sinh vào cõi này đều là người có duyên lành, sống một đời vô cùng an lạc, không đau khổ, bệnh tật, phiền não."
Ý chúng sanh cho rằng vào được cõi Đức Di Lạc hạ sanh sẽ vô cùng sung sướng không cần tu.
Thánh ý cho rằng: Nếu chúng sanh nào sanh cùng một quốc gia khi Ngài hạ sanh mà có Đại Duyên Lành theo tu pháp môn giải thoát của Ngài, tâm sẽ an lạc, tất không còn đau khổ. Khi có hoàn cảnh hóa giải tâm được an, bịnh tật cũng được tiêu trừ.
"Thân hình đầy đủ oai nghi đẹp đẽ, sống lâu đến mười ngàn tuổi."
Chúng sanh nghĩ rằng khi gặp Phật Di Lạc thân hình xấu trở nên đẹp, lại được sống lâu.
Thánh ý cho rằng: Khi gặp Ngài,tu sửa tánh, thiền định, học giáo pháp một thời tánh trở nên tốt nên tướng phải đổi theo như: mặt mày sáng, tươi đẹp, dáng đi cũng oai nghi. Khi đã được giải thoát sinh tử luân hồi, người sẽ được bất tử, nếu về cõi Trời sống, thọ mười ngàn năm.
"Có đủ thứ mỹ vị ngon lành, còn mặc thì khỏi cần phải dệt vì có thứ cây sinh ra quần áo."
Chúng sinh nghĩ rằng gặp Đức Di Lạc trong nước này không còn thức ăn dở, hôi thúi, còn mặc thì có sẵn khắp nơi khỏi cần tốn tiền lại có áo quần đẹp.
Thánh ý cho rằng: Khi gặp Ngài, dù hoàn cảnh khổ ải, gai góc đến đâu cũng hoan hỷ, vui lòng gánh chịu vì nó là món ăn ngon lành của hàng Bồ Tát Nguyện. Khi đã điều ngự được vạn tánh, tức vạn pháp, sẽ có áo giáp bền, đẹp khỏi cần tìm kiếm, khỏi cần làm vất vả...Cây sinh quần áo, ý nói không còn sự nóng giận, đau khổ, lo sợ nào xâm chiếm nữa. Tâm an lạc, thân trở nên xinh đẹp.
"Đến khi hết số phần thì vào rừng dành cho người đến đó nằm an nghỉ luôn."
Chúng sinh nghĩ rằng khi già chết sẽ được yên ổn.
Thánh ý cho rằng: khi tu đến thanh tịnh, thân hết phần số, ra đi nhẹ như bông. Rừng: ý chỉ nơi nào cũng thanh tịnh đầy khắp.
Ngài cũng đã từng dạy: Nếu chúng sinh có đức tánh tốt, tâm rộng rãi thương người khổ, thường giúp đỡ kẻ hoạn nạn. Gặp Thánh Tăng hồi hướng công đức rồi theo tu hành, thiền định, nếu chưa được giác ngộ cũng có nhiều phước báo tốt đẹp. Nghiệp tốt này sẽ được tái sinh vào nhà quyền quí cao sang, gặt hái được nhiều may mắn, tuổi thọ cao.
Nếu gặp Chư Phật cũng công đức, cũng tu thiền định theo sự chỉ đạo của Ngài, sẽ được quả tốt, được hưởng phước báu trong các Cõi Trời và trong cảnh vua chúa quyền quí cao sang. Nếu giác ngộ sẽ chấm dứt tất cả phiền não, cùng tỏ tường không ô nhiễm kiến dục. Bậc này sẽ có một đời sống trường tồn vĩnh cửu. Nếu giác ngộ rốt ráo sẽ ra khỏi vũ trụ, hoàn toàn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Tuy được giải thoát rốt ráo hết thảy các nghiệp phiền não nhưng phiền não vẫn còn đủ, cả kiến dục vẫn còn đủ vì các pháp vốn như. Nhiều bậc tín tâm tu Phật đang trông đợi Đức Di Lạc ra đời, khai mở Long Hoa vậy Long Hoa là gì?
Tôi nghe Ngài khai thị như vầy:
Long nghĩa là Rồng. Theo truyền thuyết cổ xưa dân tộc Việt Nam là con Rồng Cháu Tiên.
Hoa nghĩa là Hoa Pháp Tánh.
Hoa Pháp Tánh chung gồm tất cả tánh tốt, tánh xấu, gọi là chủng tánh chúng sanh. Chủng tánh chúng sanh vốn lầm mê trong sanh tử luân hồi. Có hoa pháp tánh nên bậc tín tâm mới tự nguyện độ chúng sanh và Chư Phật ra đời cứu độ. Bậc tu không tự độ hoa pháp tánh dù Phật có ra đời chăng cũng không độ được, cho nên ngài tái sanh về đất Việt mình:
Ta về xứ quê mình
Truyền pháp cứu mê tình
Một bông nở năm cánh
Tự nhiên đắc quả thành.
Chư Tổ cho đắp tượng Phật, tướng Phật ngồi trên tòa sen, tiêu biểu ngự trị hoa pháp tánh. Tỷ như khi có hoàn cảnh, tánh sân hận nổi lên, bậc tu cần nhẫn nhẫn, nhẫn nhịn hay nhẫn nại có kết quả, điều ngự được tánh sân hận. Tất cả các tánh khác như lo âu, sầu khổ, ngang tàng...đều kềm giữ êm đẹp gọi là Điều Ngự Trượng Phu. Trượng phu là tầng số cao hơn con người.
Hoa Pháp Tánh diễn hành, biến hóa thành pháp giới cá nhân, ôm giữ pháp giới làm lẽ sống khiến cho tất cả đều mê lầm. Hoa pháp tánh lui tới nơi con người do phổ chiếu từ vũ trụ, nên con người chạy theo diễn cảnh đúng sai, sai đúng. Vũ trụ và con người chạy theo nhau như một vòng tròn gọi là bánh xe luân hồi.
Vì không rõ được đường đi của luân hồi nên tất cả bậc tu bị sai biệt, sinh ra thực hiện từ bi, bác ái nhưng trí tuệ chưa có, cuối cùng lãnh phước thiện. Còn con đường đi đến Tri Kiến Giải Thoát là thế nào lại không nắm vững.
Vậy Long Hoa có nghĩa là Đức Di Lạc ra đời tại Việt Nam, khai đạo cho tất cả chân tử tín tâm, giải sạch hoa pháp tánh, tu hành đoạt được tri kiến giải thoát, không còn sanh tử luân hồi.
Khoa học càng tiến bộ, xã hội càng văn minh, bậc tu hành không kiềm chế được sẽ trở thành bị nhiều mong muốn về dục vọng: gọi là sắc, thinh, hương, vị cứ thế mãi tu cầu. Thời này, khi nghe nói tu điều ngự, hóa giải hoa pháp tánh, lắm bậc không tin pháp môn mới lạ này, họ nổi giận, đánh đổ trở thành an trụ nơi hoa pháp. Đa phần chỉ thích nghiên cứu, học kinh, ăn chay, mặc y áo giống Phật thì cho là Chánh Đạo, còn ngồi nhắm mắt lim dim cho là chân tu.
Khó khăn lắm mới có bậc chịu tu theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà không nhiễm. Hoa pháp đáp ứng cho tất cả tứ loài như ý muốn, trở thành hoa pháp giới còn gọi là pháp giới. Hoa pháp giới linh động, vi tế đến nỗi Phật còn phải lầm mà bị trụ chứng nơi Phật Giới còn gọi là Bích Chi Phật, Độc Giác Phật. Bậc tu cầu giác ngộ phải thực hiện thường soi nơi tánh mình, thấy-biết rõ tánh mình thay đổi có tham vọng, thích vọng mà cải thiện gọi là sửa tánh. Bậc tu không chịu sửa tánh, ắt bị thọ nghiệp nơi hoa pháp phải chịu vướng trong sanh tử.
Đức Di Lạc khai mở Long Hoa hàng ngày cho chân tử tìm đến xin tu học, Chủ đích của Long Hoa chính là pháp môn giải thoát để cứu nhân loài thoát sanh tử luân hồi, y tôn chỉ Tam Thế Phật: Quá khứ, hiện tại, vị lai.
Pháp môn giải thoát là một pháp môn tu nơi Văn – Tư – Tu, tức là vạn pháp không vướng mắc. Từ hoàn cảnh trong Đạo tràng khúc mắc, cho đến ngoài thế gian: bà con gia đình, bạn thân hoặc sơ, người trên kẻ dưới, va chạm nhau trở thành diễn cảnh thuận và nghịch. Bậc tu nương nhờ hỷ xả tâm, có công năng kiến tạo không bị vướng mắc sẽ sống động hơn bậc nhắm mắt lim dim, ngồi chỗ vắng tránh né vạn pháp để tận diệt, đặng không va chạm vướng mắc.
Có trí tuệ hóa giải nghi chấp, hóa giải bờ ngăn bằng con đường nhẫn nhẫn, nhẫn nhịn, nhẫn nại, tiếp đến vận chuyển bờ ngăn gọi là trí tuệ cứu cánh mới mong giải thoát. Bậc tu không dùng trí tuệ hóa giải, chỉ an trụ từ bi, bác ái, ai giết mình cũng được gọi là Thánh Hiền nhưng không thực hiện tận độ chúng sinh được. Bậc tu chưa có trí tuệ cứu cánh, chỉ thực hiện từ bi, bác ái dù có thần thông vẫn còn kẹt nơi hoa pháp cố thủ không giải thoát được, cao nhất được về Cõi Trời chứ không thoát ra ngoài vũ trụ được. Bậc kiến tánh, không cần sắc tướng vẫn thấy biết, nhờ thường tánh sáng soi nơi không tướng vẫn thấy. Tư tưởng chứa nhóm sanh tánh, vọng đảo tham muốn sanh tánh. Có cảnh tánh liền sanh bởi tự ngã sanh tánh. Tánh đã sanh liền lại diệt nên chi có rất nhiều tánh sanh diệt, diệt sanh gọi là sanh tử luân hồi.
Bậc tín tâm cầu đạo cần lý kinh và sự hóa giải tánh phải đồng song. Đức và trí đồng song, bất tăng bất giảm mà triệt thấu, viên đạt giải giới hoa pháp. Rất nhiều bậc tu hành bị vướng vào không chấp, bị chấp không, vẫn là hoa Pháp Giới Không. Thật tai hại. Chỉ cần một sơ ý sai lạc phải chịu nằm trong ĐÀI HOA PHÁP GIỚI vô số kiếp. Do đó hàng hàng lớp lớp bậc tu an trụ nơi Đài Hoa Pháp Giới sinh ra Tam Thiên Đại Thiên Thế giới, cho đến ba cõi sáu đường. Bồ Tát nguyện là bậc nương vạn hạnh lìa hẳn chướng đối, hòa mình nương nơi thuận nghịch chứ đừng diệt nghịch pháp. Tâm không quái ngại nhiếp độ lục đạo pháp giới, thâm nhập pháp giới mới tỏ ngộ mà tận giác tướng, thoát khỏi đài hoa pháp giới, Đạt được Vô Thượng Đẳng Chánh Giác.
Thời Mạt Pháp, tất cả các pháp nơi nào cũng tận. Ngài biết rất khó đắp xây vì bậc tu Phật không quan tâm đến Hoa Pháp Giới. Khi nghe giải thích về Long Hoa như vậy, nhiều bậc tu không cầu giác ngộ, vốn thường trụ, thường chấp, thường bảo thủ cá nhân, thương ghét không chừng và tu theo chí hướng qui định, lòng vẫn tin Phật, nhưng tu chỉ trông chờ siêu hình cùng sự kỳ lạ, liền không thấy có gì hợp ý. Nó cũng không theo ý nghĩ lâu nay của các bậc tu này, với ảo tưởng kỳ lạ nơi cơ đàn ghi bút: như núi Thất Sơn nổ, trời đất tối đen bảy ngày bảy đêm. Sau đó Đức Di Lạc từ trong núi đi ra hào quang sáng chiếu...
Còn Tiên Thần Trí đức tánh suy tưởng, dụng Thiền, định tưởng, chọn lọc các pháp thanh cao, đẹp đẽ, bỏ và thanh lọc pháp thô, xấu, dơ. Sau đó nhiếp thu tu luyện nên chưa rõ Long Hoa ra đời, núi Thất Sơn nổ như thế nào.
Một hôm Đức Minh Vương khai thị, tôi nghe như vầy: Ví như thân Tôi, không từ bà mẹ sanh ra, lại do núi Thất Sơn nổ sanh ra, Tôi từ trong núi đi ra, hào quang sáng chói, thì chắc thiên hạ họ sẽ ùn ùn kéo nhau đi đến xem. Lúc đó, ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi, mỗi mỗi cử động, họ đều theo hiếu kỳ mà bám sát, chắc Tôi cũng chết sớm chớ sống sao nổi để khai mở Long Hoa. Ngài ghi bút nhắc nhở:
Thượng Sanh Đâu Suất Môn
Hạ Lai Vô Thượng Tôn
Qúi thay! Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khéo biết, khéo tường tận chốn Hạ Lai Đồng Độ. Ngài đã thọ ký Đức Di Lạc từ Cung Trời Đâu Suất, hạ sanh nơi thế giới Ta Bà này, hạnh nguyện tu hành nhiếp độ các hàng Tiên Thần, tận độ chúng sanh thành Phật Quả. Cho nên những bậc tín tâm có Đại Duyên Lành, không chướng đối, không chấp, được gặp Long Hoa ra đời ở Ta bà nầy Còn những bậc quan niệm cho rằng Tu hành sao không ăn chay, sao không cạo đầu, sao lại có gia đình vợ chồng, con cái nặng nghiệp quá, lại vì họ không nhận Nghe-Thấy-Biết là vạn pháp nên chê trách, cho là tà đạo, bỏ đi không vào tu hành theo Long Hoa được.
Ngày nay, nói đến Phật Giáo, là một tôn giáo mà cả thế giới này đều biết, nó đã đi vào lịch sử của nhân loại, nhưng những ai thiết tha cầu con đường giác ngộ, thật khó tìm bậc đạo sư làm thỏa nguyện. Đức Quảng An Hải Lạc Hạ Lai lần này, đã lưu lại cho hiện tại và hậu thế một pháp môn tu hành, ngay trong gia đình, ngay chốn cơ quan làm việc mà vẫn được giác ngộ. Một Pháp môn giác ngộ hiện đại nó là niềm tin tự hào cho bất cứ chúng sinh nào muốn cầu Tri Kiến Giải Thoát trong hiện kiếp. Đường lối tu này tuy mới lạ nhưng thực sự đã y tôn chỉ thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức A Di Đà Phật, Đức Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cùng Chư Phật mười phương hộ trì.
Những hình thức nghi lễ rườm rà được Ngài bãi bỏ. Lễ nhập đạo, cùng những ngày Đại lễ khác cũng tổ chức đơn giản nhưng đầy tôn nghiêm, trịnh trọng, không có một giáo điều cuồng tín. Sự tu hành hàng ngày của chân tử được khai thị rõ ràng, minh bạch, cốt yếu cho bậc tu nhận lãnh được rồi thực hành, áp dụng tu thực tiễn trong đời sống thường ngày, hưởng kết quả không còn đau khổ trong hiện tại.
Quan niệm của một chúng sinh trong tứ loài, qua tư tưởng, lời nói, hành động nhiều đời kiếp sẽ quyết định cuộc đời của chúng sinh đó trong hiện tại, tương lai và tái sinh. Quan niệm cố định Phật gọi là NGHIỆP, tất cả chúng sinh không thoát khỏi nghiệp lực này. Nó quyết định số phận của chúng sanh không chỉ ngay hiện tại mà còn hiện rõ trong những hoàn cảnh thích hợp về sau nữa. Nếu quyết tâm bền chí, chúng sinh nhờ công năng công đức trong hiện kiếp có thể tự hóa giải, thoát nghiệp được.
Thời Hạ Lai Di lạc pháp có lắm pháp đến tận cùng. Ví như có một thầy giáo quen nghề cầm bút và đứng trên bục giảng, nếu bị bắt đi làm ruộng thà chết chứ không chịu. Quan niệm sống thường ngày ăn sâu vào tư tưởng đến lời nói, cuối cùng là hành động quen dần, nếu bị đổi thay khác giới sẽ không chịu nổi. Bậc tu gặp phải hoàn cảnh dù tại gia hay xuất gia, nếu có chí dũng đều được giải thoát nghiệp lực. Hàng Bồ Tát Nguyện, gặp hoàn cảnh như vậy cũng vui lòng ghi nhận, tâm không hờn oán, lại chú tâm tìm cách hóa giải. Trái lại, chúng sinh chỉ than thở hoặc sầu khổ.
Ví như con cá quen sống ở ao tù nước đọng, nếu bắt đem nó ra mương nước rộng hơn, trong trẻo hơn, nó hoảng hốt chạy trốn và lủi dưới bùn. Dần dần nó quen lối sống, mới dám bơi lội tự nhiên. Nếu đem con cá ở mương nước ra sông rộng rãi hơn, nước chảy siết hơn, nó cũng hốt hoảng chạy trốn. Dần dần nó quen lối sống, mới dám bơi lội tự nhiên. Nếu đem con cá ở sông ra nước hai giòng ngọt và mặn ở cửa biển, nó cũng hoảng sợ và liền quay đầu tìm về chốn cũ, sau quen dần nó mới ra vào biển cả rộng mênh mông, tha hồ đi lại.
Bậc tu cũng vậy, quan niệm theo môi trường sống của mình bị thay đổi thì thà chết chớ không chịu nghe, hoặc không chịu tìm hiểu, sẽ không bao giờ gặp Phật hay Bồ Tát ra đời để được cứu độ. Dù chư vị Thiện Trí Thức này có ở ngay bên cạnh các cũng đành chịu. Đương thời, Đức Minh Vương ra đời thường nhắn nhủ cho chân tử ý thức câu:
Phật bất hóa độ Vô Duyên, bất hóa độ Định Nghiệp.
Bậc tu quan niệm con đường mình đang đi là đúng, dù có Chư Phật cũng không giải cái định kiến này, chỉ trừ bậc đó họ tự hồi hướng, tự tìm hiểu và tự nhận định. Bậc cầu giác ngộ luôn nương tựa Chư Bồ Tát nếu không có đại duyên gặp Phật. Cần vào giới, ra giới, dung thông không dừng trụ, không chấp mới mong tu theo con đường Tri Kiến Giải Thoát được.
Nghiệp bao phủ chúng sinh trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Tu hành muốn tiến bộ hơn hiện tại, tức thì có sự cản ngăn của nghiệp chướng. Nó vô tướng nhưng đầy quyền lực. Phải tu trong Phổ Môn Phẩm và chí bền mới vượt khỏi nghiệp lực được. Bậc Thánh nó cản ngăn không cho đến Bồ Tát, Bậc Bồ Tát nó cản ngăn không cho đến Phật. Chính mình mới thắng được nghiệp lực của mình. Thời nào cũng vậy, do Nghiệp Lực mà chúng sinh không gặp được Phật.
Nếu tin rằng chúng sinh được sinh ra, do một Đấng Toàn Năng, có quyền quyết định cả số phận của tất cả mà không một chúng sinh nào thay đổi được nghiệp lực của mình, điều đó là trái ngược lời chỉ dạy của Chư Phật.
Chư Phật hướng đạo, còn chính chúng sinh quyết định đường tu hành của mình: Giác ngộ hay mê lầm, hạnh phúc hay đau khổ, do sự khác biệt giữa cái Nghiệp của mỗi chúng sinh nên mới có sự khác nhau: Chúng sanh không gặp được Chư Phật là như thế.
Còn kinh sấm của Chư vị Tiên Thần ghi:
Chư Tổ cho đắp tượng Phật, tướng Phật ngồi trên tòa sen, tiêu biểu ngự trị hoa pháp tánh. Tỷ như khi có hoàn cảnh, tánh sân hận nổi lên, bậc tu cần nhẫn nhẫn, nhẫn nhịn hay nhẫn nại có kết quả, điều ngự được tánh sân hận. Tất cả các tánh khác như lo âu, sầu khổ, ngang tàng...đều kềm giữ êm đẹp gọi là Điều Ngự Trượng Phu. Trượng phu là tầng số cao hơn con người.
Hoa Pháp Tánh diễn hành, biến hóa thành pháp giới cá nhân, ôm giữ pháp giới làm lẽ sống khiến cho tất cả đều mê lầm. Hoa pháp tánh lui tới nơi con người do phổ chiếu từ vũ trụ, nên con người chạy theo diễn cảnh đúng sai, sai đúng. Vũ trụ và con người chạy theo nhau như một vòng tròn gọi là bánh xe luân hồi.
Vì không rõ được đường đi của luân hồi nên tất cả bậc tu bị sai biệt, sinh ra thực hiện từ bi, bác ái nhưng trí tuệ chưa có, cuối cùng lãnh phước thiện. Còn con đường đi đến Tri Kiến Giải Thoát là thế nào lại không nắm vững.
Vậy Long Hoa có nghĩa là Đức Di Lạc ra đời tại Việt Nam, khai đạo cho tất cả chân tử tín tâm, giải sạch hoa pháp tánh, tu hành đoạt được tri kiến giải thoát, không còn sanh tử luân hồi.
Khoa học càng tiến bộ, xã hội càng văn minh, bậc tu hành không kiềm chế được sẽ trở thành bị nhiều mong muốn về dục vọng: gọi là sắc, thinh, hương, vị cứ thế mãi tu cầu. Thời này, khi nghe nói tu điều ngự, hóa giải hoa pháp tánh, lắm bậc không tin pháp môn mới lạ này, họ nổi giận, đánh đổ trở thành an trụ nơi hoa pháp. Đa phần chỉ thích nghiên cứu, học kinh, ăn chay, mặc y áo giống Phật thì cho là Chánh Đạo, còn ngồi nhắm mắt lim dim cho là chân tu.
Khó khăn lắm mới có bậc chịu tu theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà không nhiễm. Hoa pháp đáp ứng cho tất cả tứ loài như ý muốn, trở thành hoa pháp giới còn gọi là pháp giới. Hoa pháp giới linh động, vi tế đến nỗi Phật còn phải lầm mà bị trụ chứng nơi Phật Giới còn gọi là Bích Chi Phật, Độc Giác Phật. Bậc tu cầu giác ngộ phải thực hiện thường soi nơi tánh mình, thấy-biết rõ tánh mình thay đổi có tham vọng, thích vọng mà cải thiện gọi là sửa tánh. Bậc tu không chịu sửa tánh, ắt bị thọ nghiệp nơi hoa pháp phải chịu vướng trong sanh tử.
Đức Di Lạc khai mở Long Hoa hàng ngày cho chân tử tìm đến xin tu học, Chủ đích của Long Hoa chính là pháp môn giải thoát để cứu nhân loài thoát sanh tử luân hồi, y tôn chỉ Tam Thế Phật: Quá khứ, hiện tại, vị lai.
Pháp môn giải thoát là một pháp môn tu nơi Văn – Tư – Tu, tức là vạn pháp không vướng mắc. Từ hoàn cảnh trong Đạo tràng khúc mắc, cho đến ngoài thế gian: bà con gia đình, bạn thân hoặc sơ, người trên kẻ dưới, va chạm nhau trở thành diễn cảnh thuận và nghịch. Bậc tu nương nhờ hỷ xả tâm, có công năng kiến tạo không bị vướng mắc sẽ sống động hơn bậc nhắm mắt lim dim, ngồi chỗ vắng tránh né vạn pháp để tận diệt, đặng không va chạm vướng mắc.
Có trí tuệ hóa giải nghi chấp, hóa giải bờ ngăn bằng con đường nhẫn nhẫn, nhẫn nhịn, nhẫn nại, tiếp đến vận chuyển bờ ngăn gọi là trí tuệ cứu cánh mới mong giải thoát. Bậc tu không dùng trí tuệ hóa giải, chỉ an trụ từ bi, bác ái, ai giết mình cũng được gọi là Thánh Hiền nhưng không thực hiện tận độ chúng sinh được. Bậc tu chưa có trí tuệ cứu cánh, chỉ thực hiện từ bi, bác ái dù có thần thông vẫn còn kẹt nơi hoa pháp cố thủ không giải thoát được, cao nhất được về Cõi Trời chứ không thoát ra ngoài vũ trụ được. Bậc kiến tánh, không cần sắc tướng vẫn thấy biết, nhờ thường tánh sáng soi nơi không tướng vẫn thấy. Tư tưởng chứa nhóm sanh tánh, vọng đảo tham muốn sanh tánh. Có cảnh tánh liền sanh bởi tự ngã sanh tánh. Tánh đã sanh liền lại diệt nên chi có rất nhiều tánh sanh diệt, diệt sanh gọi là sanh tử luân hồi.
Bậc tín tâm cầu đạo cần lý kinh và sự hóa giải tánh phải đồng song. Đức và trí đồng song, bất tăng bất giảm mà triệt thấu, viên đạt giải giới hoa pháp. Rất nhiều bậc tu hành bị vướng vào không chấp, bị chấp không, vẫn là hoa Pháp Giới Không. Thật tai hại. Chỉ cần một sơ ý sai lạc phải chịu nằm trong ĐÀI HOA PHÁP GIỚI vô số kiếp. Do đó hàng hàng lớp lớp bậc tu an trụ nơi Đài Hoa Pháp Giới sinh ra Tam Thiên Đại Thiên Thế giới, cho đến ba cõi sáu đường. Bồ Tát nguyện là bậc nương vạn hạnh lìa hẳn chướng đối, hòa mình nương nơi thuận nghịch chứ đừng diệt nghịch pháp. Tâm không quái ngại nhiếp độ lục đạo pháp giới, thâm nhập pháp giới mới tỏ ngộ mà tận giác tướng, thoát khỏi đài hoa pháp giới, Đạt được Vô Thượng Đẳng Chánh Giác.
Thời Mạt Pháp, tất cả các pháp nơi nào cũng tận. Ngài biết rất khó đắp xây vì bậc tu Phật không quan tâm đến Hoa Pháp Giới. Khi nghe giải thích về Long Hoa như vậy, nhiều bậc tu không cầu giác ngộ, vốn thường trụ, thường chấp, thường bảo thủ cá nhân, thương ghét không chừng và tu theo chí hướng qui định, lòng vẫn tin Phật, nhưng tu chỉ trông chờ siêu hình cùng sự kỳ lạ, liền không thấy có gì hợp ý. Nó cũng không theo ý nghĩ lâu nay của các bậc tu này, với ảo tưởng kỳ lạ nơi cơ đàn ghi bút: như núi Thất Sơn nổ, trời đất tối đen bảy ngày bảy đêm. Sau đó Đức Di Lạc từ trong núi đi ra hào quang sáng chiếu...
Còn Tiên Thần Trí đức tánh suy tưởng, dụng Thiền, định tưởng, chọn lọc các pháp thanh cao, đẹp đẽ, bỏ và thanh lọc pháp thô, xấu, dơ. Sau đó nhiếp thu tu luyện nên chưa rõ Long Hoa ra đời, núi Thất Sơn nổ như thế nào.
Một hôm Đức Minh Vương khai thị, tôi nghe như vầy: Ví như thân Tôi, không từ bà mẹ sanh ra, lại do núi Thất Sơn nổ sanh ra, Tôi từ trong núi đi ra, hào quang sáng chói, thì chắc thiên hạ họ sẽ ùn ùn kéo nhau đi đến xem. Lúc đó, ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi, mỗi mỗi cử động, họ đều theo hiếu kỳ mà bám sát, chắc Tôi cũng chết sớm chớ sống sao nổi để khai mở Long Hoa. Ngài ghi bút nhắc nhở:
Thượng Sanh Đâu Suất Môn
Hạ Lai Vô Thượng Tôn
Qúi thay! Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khéo biết, khéo tường tận chốn Hạ Lai Đồng Độ. Ngài đã thọ ký Đức Di Lạc từ Cung Trời Đâu Suất, hạ sanh nơi thế giới Ta Bà này, hạnh nguyện tu hành nhiếp độ các hàng Tiên Thần, tận độ chúng sanh thành Phật Quả. Cho nên những bậc tín tâm có Đại Duyên Lành, không chướng đối, không chấp, được gặp Long Hoa ra đời ở Ta bà nầy Còn những bậc quan niệm cho rằng Tu hành sao không ăn chay, sao không cạo đầu, sao lại có gia đình vợ chồng, con cái nặng nghiệp quá, lại vì họ không nhận Nghe-Thấy-Biết là vạn pháp nên chê trách, cho là tà đạo, bỏ đi không vào tu hành theo Long Hoa được.
Ngày nay, nói đến Phật Giáo, là một tôn giáo mà cả thế giới này đều biết, nó đã đi vào lịch sử của nhân loại, nhưng những ai thiết tha cầu con đường giác ngộ, thật khó tìm bậc đạo sư làm thỏa nguyện. Đức Quảng An Hải Lạc Hạ Lai lần này, đã lưu lại cho hiện tại và hậu thế một pháp môn tu hành, ngay trong gia đình, ngay chốn cơ quan làm việc mà vẫn được giác ngộ. Một Pháp môn giác ngộ hiện đại nó là niềm tin tự hào cho bất cứ chúng sinh nào muốn cầu Tri Kiến Giải Thoát trong hiện kiếp. Đường lối tu này tuy mới lạ nhưng thực sự đã y tôn chỉ thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức A Di Đà Phật, Đức Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cùng Chư Phật mười phương hộ trì.
Những hình thức nghi lễ rườm rà được Ngài bãi bỏ. Lễ nhập đạo, cùng những ngày Đại lễ khác cũng tổ chức đơn giản nhưng đầy tôn nghiêm, trịnh trọng, không có một giáo điều cuồng tín. Sự tu hành hàng ngày của chân tử được khai thị rõ ràng, minh bạch, cốt yếu cho bậc tu nhận lãnh được rồi thực hành, áp dụng tu thực tiễn trong đời sống thường ngày, hưởng kết quả không còn đau khổ trong hiện tại.
Quan niệm của một chúng sinh trong tứ loài, qua tư tưởng, lời nói, hành động nhiều đời kiếp sẽ quyết định cuộc đời của chúng sinh đó trong hiện tại, tương lai và tái sinh. Quan niệm cố định Phật gọi là NGHIỆP, tất cả chúng sinh không thoát khỏi nghiệp lực này. Nó quyết định số phận của chúng sanh không chỉ ngay hiện tại mà còn hiện rõ trong những hoàn cảnh thích hợp về sau nữa. Nếu quyết tâm bền chí, chúng sinh nhờ công năng công đức trong hiện kiếp có thể tự hóa giải, thoát nghiệp được.
Thời Hạ Lai Di lạc pháp có lắm pháp đến tận cùng. Ví như có một thầy giáo quen nghề cầm bút và đứng trên bục giảng, nếu bị bắt đi làm ruộng thà chết chứ không chịu. Quan niệm sống thường ngày ăn sâu vào tư tưởng đến lời nói, cuối cùng là hành động quen dần, nếu bị đổi thay khác giới sẽ không chịu nổi. Bậc tu gặp phải hoàn cảnh dù tại gia hay xuất gia, nếu có chí dũng đều được giải thoát nghiệp lực. Hàng Bồ Tát Nguyện, gặp hoàn cảnh như vậy cũng vui lòng ghi nhận, tâm không hờn oán, lại chú tâm tìm cách hóa giải. Trái lại, chúng sinh chỉ than thở hoặc sầu khổ.
Ví như con cá quen sống ở ao tù nước đọng, nếu bắt đem nó ra mương nước rộng hơn, trong trẻo hơn, nó hoảng hốt chạy trốn và lủi dưới bùn. Dần dần nó quen lối sống, mới dám bơi lội tự nhiên. Nếu đem con cá ở mương nước ra sông rộng rãi hơn, nước chảy siết hơn, nó cũng hốt hoảng chạy trốn. Dần dần nó quen lối sống, mới dám bơi lội tự nhiên. Nếu đem con cá ở sông ra nước hai giòng ngọt và mặn ở cửa biển, nó cũng hoảng sợ và liền quay đầu tìm về chốn cũ, sau quen dần nó mới ra vào biển cả rộng mênh mông, tha hồ đi lại.
Bậc tu cũng vậy, quan niệm theo môi trường sống của mình bị thay đổi thì thà chết chớ không chịu nghe, hoặc không chịu tìm hiểu, sẽ không bao giờ gặp Phật hay Bồ Tát ra đời để được cứu độ. Dù chư vị Thiện Trí Thức này có ở ngay bên cạnh các cũng đành chịu. Đương thời, Đức Minh Vương ra đời thường nhắn nhủ cho chân tử ý thức câu:
Phật bất hóa độ Vô Duyên, bất hóa độ Định Nghiệp.
Bậc tu quan niệm con đường mình đang đi là đúng, dù có Chư Phật cũng không giải cái định kiến này, chỉ trừ bậc đó họ tự hồi hướng, tự tìm hiểu và tự nhận định. Bậc cầu giác ngộ luôn nương tựa Chư Bồ Tát nếu không có đại duyên gặp Phật. Cần vào giới, ra giới, dung thông không dừng trụ, không chấp mới mong tu theo con đường Tri Kiến Giải Thoát được.
Nghiệp bao phủ chúng sinh trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Tu hành muốn tiến bộ hơn hiện tại, tức thì có sự cản ngăn của nghiệp chướng. Nó vô tướng nhưng đầy quyền lực. Phải tu trong Phổ Môn Phẩm và chí bền mới vượt khỏi nghiệp lực được. Bậc Thánh nó cản ngăn không cho đến Bồ Tát, Bậc Bồ Tát nó cản ngăn không cho đến Phật. Chính mình mới thắng được nghiệp lực của mình. Thời nào cũng vậy, do Nghiệp Lực mà chúng sinh không gặp được Phật.
Nếu tin rằng chúng sinh được sinh ra, do một Đấng Toàn Năng, có quyền quyết định cả số phận của tất cả mà không một chúng sinh nào thay đổi được nghiệp lực của mình, điều đó là trái ngược lời chỉ dạy của Chư Phật.
Chư Phật hướng đạo, còn chính chúng sinh quyết định đường tu hành của mình: Giác ngộ hay mê lầm, hạnh phúc hay đau khổ, do sự khác biệt giữa cái Nghiệp của mỗi chúng sinh nên mới có sự khác nhau: Chúng sanh không gặp được Chư Phật là như thế.
Còn kinh sấm của Chư vị Tiên Thần ghi:
"Mở cuộc Long Hoa chiêu Thánh Đức
Hưng truyền chơn lý phước cao phong"
Kinh sấm này ghi đúng thời gian Đức Di Lạc đang khai đạo cho tứ chúng tìm đến tu theo Ngài. Vào khoảng năm 1992 dương lịch, Kinh sấm còn ghi:
Hưng truyền chơn lý phước cao phong"
Kinh sấm này ghi đúng thời gian Đức Di Lạc đang khai đạo cho tứ chúng tìm đến tu theo Ngài. Vào khoảng năm 1992 dương lịch, Kinh sấm còn ghi:
Rán tu gặp Hội
Long Hoa
Trễ rồi một kiếp đọa sa muôn đời
Dầu cho vật đổi sao dời
Tu hành cũng được Phật Trời chở che
Ai cũng quả quyết có Long Hoa ra đời và Việt Nam là một giống dân quý.
Trễ rồi một kiếp đọa sa muôn đời
Dầu cho vật đổi sao dời
Tu hành cũng được Phật Trời chở che
Ai cũng quả quyết có Long Hoa ra đời và Việt Nam là một giống dân quý.
Rồng mây Phật hội Phong Thần mạng
Sen nở, Long Hoa vạn Quốc qui
Ớ hởi ! Lạc Hồng nền Bích Ngọc
Vững lòng chúa ẩn, hạnh duyên tùy
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai thị: “Người nào nhìn thấy giáo pháp là thấy Như Lai” Giáo pháp của Như Lai Là gì? Như đã trình bày ở phần trước:
- Đạo đức: Sửa tánh xấu, đố tật xấu, hỷ xả...
- Giáo lý: Kinh Phật, nghe thuyết giảng...
- Toạ Thiền: Tu Như Lai Thiền.
Sen nở, Long Hoa vạn Quốc qui
Ớ hởi ! Lạc Hồng nền Bích Ngọc
Vững lòng chúa ẩn, hạnh duyên tùy
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai thị: “Người nào nhìn thấy giáo pháp là thấy Như Lai” Giáo pháp của Như Lai Là gì? Như đã trình bày ở phần trước:
- Đạo đức: Sửa tánh xấu, đố tật xấu, hỷ xả...
- Giáo lý: Kinh Phật, nghe thuyết giảng...
- Toạ Thiền: Tu Như Lai Thiền.
Đạo Đức + Giáo Lý + Tọa Thiền = Tri
Kiến Giải Thoát
Tu như vậy, Chư Phật ra đời liền được đến diện kiến. Chư Phật dạy chân tử của Ngài, nên tu theo giáo pháp của Ngài như vậy để tìm chân lý. Kinh sấm giảng đúng lúc Đức Di Lạc ra đời mà bậc tu không biết giáo môn của Phật ra sao, lại mang nặng thành kiến sẵn cũng không gặp được Ngài.
Ngài dạy cho Chân tử tự giác, chứ không dụng thần thông để chân tử tìm đến theo học Ngài. Chỉ khi tối cần, Chư Phật mới hiện thần thông để cứu độ những bậc tu đáng được độ. Thử hỏi, khi núi Thất Sơn nổ, số đông đến hỗn loạn, liệu Ngài độ được mấy chúng sinh giác ngộ?
Không hề có cảnh đăng đàn thuyết pháp mà đắc đạo hết được. Trái lại, phải diệu dụng cho từng chân tử một trong muôn vạn pháp, khó lắm bậc tín tâm mới thọ lãnh được. Nếu chỉ nghe qua một câu kinh mà ngộ là ngộ kinh chứ không phải giác ngộ của Chư Phật, vì nó còn phần vận chuyển vạn pháp quá ư là khó nữa.
Thời hiền kiếp Đức Bổn Sư Khai Thị, có lắm bậc hữu hình và vô số bậc tu vô hình giác ngộ. Còn thời hạ kiếp này vật chất làm đảo lộn lòng người nên quá khó đắp xây nền chánh pháp, do đó hiếm bậc giác ngộ. Hai câu thơ ghi rõ tâm trạng của Đức Di Lạc:
Tu như vậy, Chư Phật ra đời liền được đến diện kiến. Chư Phật dạy chân tử của Ngài, nên tu theo giáo pháp của Ngài như vậy để tìm chân lý. Kinh sấm giảng đúng lúc Đức Di Lạc ra đời mà bậc tu không biết giáo môn của Phật ra sao, lại mang nặng thành kiến sẵn cũng không gặp được Ngài.
Ngài dạy cho Chân tử tự giác, chứ không dụng thần thông để chân tử tìm đến theo học Ngài. Chỉ khi tối cần, Chư Phật mới hiện thần thông để cứu độ những bậc tu đáng được độ. Thử hỏi, khi núi Thất Sơn nổ, số đông đến hỗn loạn, liệu Ngài độ được mấy chúng sinh giác ngộ?
Không hề có cảnh đăng đàn thuyết pháp mà đắc đạo hết được. Trái lại, phải diệu dụng cho từng chân tử một trong muôn vạn pháp, khó lắm bậc tín tâm mới thọ lãnh được. Nếu chỉ nghe qua một câu kinh mà ngộ là ngộ kinh chứ không phải giác ngộ của Chư Phật, vì nó còn phần vận chuyển vạn pháp quá ư là khó nữa.
Thời hiền kiếp Đức Bổn Sư Khai Thị, có lắm bậc hữu hình và vô số bậc tu vô hình giác ngộ. Còn thời hạ kiếp này vật chất làm đảo lộn lòng người nên quá khó đắp xây nền chánh pháp, do đó hiếm bậc giác ngộ. Hai câu thơ ghi rõ tâm trạng của Đức Di Lạc:
“Gối mỏi gối, vai vùn vai
Chí còn vận chuyển Phật Đài còn xây”
Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vậy, tự người chân tử phải kiên trì tu hành mới mong có kết quả: “Các con phải cố gắng, Chư Phật chỉ là những vị Thầy”
Phật Thừa không bỏ cũng chẳng lấy, không oán hận cũng chẳng chịu đựng. Có nghĩa phải vận chuyển pháp tránh chịu đựng những việc không cần thiết để hoàn thành lòng Đại Bi gọi là Phật Tri Kiến, nửa đường chân lý còn lại Hàng Bồ Tát ở vị trí tiến đến Phật Giác nhập thể.
Tối Thượng Thừa viên dung vận chuyển Tam Muội ổn định theo ý muốn, đạt được Diệu Dụng Phẩm thuộc hàng Ma Ha Tát, tiến đến sát với Như Lai Phật gọi là Phật Thừa. Phẩm này không thể nghĩ bàn, nó tuy hai mà một, tuy một mà hai.
Chí còn vận chuyển Phật Đài còn xây”
Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vậy, tự người chân tử phải kiên trì tu hành mới mong có kết quả: “Các con phải cố gắng, Chư Phật chỉ là những vị Thầy”
Phật Thừa không bỏ cũng chẳng lấy, không oán hận cũng chẳng chịu đựng. Có nghĩa phải vận chuyển pháp tránh chịu đựng những việc không cần thiết để hoàn thành lòng Đại Bi gọi là Phật Tri Kiến, nửa đường chân lý còn lại Hàng Bồ Tát ở vị trí tiến đến Phật Giác nhập thể.
Tối Thượng Thừa viên dung vận chuyển Tam Muội ổn định theo ý muốn, đạt được Diệu Dụng Phẩm thuộc hàng Ma Ha Tát, tiến đến sát với Như Lai Phật gọi là Phật Thừa. Phẩm này không thể nghĩ bàn, nó tuy hai mà một, tuy một mà hai.
Ta tự gán cho vạn vật và nhân sinh là khách quan thì vạn
vật nhân sinh cũng đủ quyền cho ta là quan khách.
a. Bằng ta công nhận vạn vật nhân sinh là bà con giòng họ mật thiết thân yêu, thì nó sẽ đưa ta chạy trong vòng sanh tử luân hồi.
b. Nếu ta cần rõ biết vạn vật nhân sinh thời nó lại giao cảm biết ta, giữa đôi bên thoải mái đem đến chân thiện hoàn lai.
“Phật ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh Vũ Trụ.
Bồ Tát có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng” Vì sao Chư Phật phải chứng minh? Vì thời Mạt Pháp là thời mà chúng sinh tu hành không theo tôn chỉ của ba đời Phật, không thực hiện Đạo Đức lại tu theo lý trí. Đã Mạt Pháp liền đến Mạt Kiếp. Mạt Kiếp tức lối sống hành động theo cái muốn không còn kỷ cương đạo đức. Dần dần đi đến ác, đâu đâu cũng thấy hiện ác căn: Ngạ Quỷ, A Tu La, Súc Sanh đến Địa Ngục thịnh hành, còn bậc Nhân Thiên rất hiếm. Thời Mạt Kiếp là thời cuối nên đời sống diễn hành, pháp gì cũng tận tận. Cuối thời Mạt Kiếp sẽ chuyển Thượng Kiếp, nó cũng đúng thời Đồng Độ. Nếu Chư Phật không ra đời chứng minh, ắt chúng sinh phải trầm luân mãi trong Hạ Kiếp vì xã hội suy đồi đến mức tận cùng. Người dân vô tội không dấn thân bên này hoặc bên kia cũng bị chung số phận. “Tất cả đã lầm, tưởng mình sau khi mãn phần hết kiếp vẫn sanh trong quả Địa Cầu nầy, hoặc mình là người thời được sanh làm kiếp con người, có kẻ lại lầm khi mình chết là mất.
Mỗi một bậc khi mãn phần hết kiếp thì từ nơi quả Địa Cầu này, liền thoát sanh qua trăm ngàn quả Địa Cầu khác, đến nơi đồng hợp với Đức Tánh, đồng hợp với cử chỉ liền được sanh nơi đó, rất hiếm bậc đặng đồng sanh nơi mình mới vừa thoát để sanh.
Lại có bậc từ quả Địa Cầu nầy, lúc mãn phần vừa mới được thoát sanh liền được sanh phải lướt qua trăm ngàn Cảnh Giới, hoặc lướt qua trăm ngàn Cõi, Cảnh Giới nào hay Cõi nào đồng hợp với Đức Tánh cử chỉ liền được sanh nơi đó.”
a. Bằng ta công nhận vạn vật nhân sinh là bà con giòng họ mật thiết thân yêu, thì nó sẽ đưa ta chạy trong vòng sanh tử luân hồi.
b. Nếu ta cần rõ biết vạn vật nhân sinh thời nó lại giao cảm biết ta, giữa đôi bên thoải mái đem đến chân thiện hoàn lai.
“Phật ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh Vũ Trụ.
Bồ Tát có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng” Vì sao Chư Phật phải chứng minh? Vì thời Mạt Pháp là thời mà chúng sinh tu hành không theo tôn chỉ của ba đời Phật, không thực hiện Đạo Đức lại tu theo lý trí. Đã Mạt Pháp liền đến Mạt Kiếp. Mạt Kiếp tức lối sống hành động theo cái muốn không còn kỷ cương đạo đức. Dần dần đi đến ác, đâu đâu cũng thấy hiện ác căn: Ngạ Quỷ, A Tu La, Súc Sanh đến Địa Ngục thịnh hành, còn bậc Nhân Thiên rất hiếm. Thời Mạt Kiếp là thời cuối nên đời sống diễn hành, pháp gì cũng tận tận. Cuối thời Mạt Kiếp sẽ chuyển Thượng Kiếp, nó cũng đúng thời Đồng Độ. Nếu Chư Phật không ra đời chứng minh, ắt chúng sinh phải trầm luân mãi trong Hạ Kiếp vì xã hội suy đồi đến mức tận cùng. Người dân vô tội không dấn thân bên này hoặc bên kia cũng bị chung số phận. “Tất cả đã lầm, tưởng mình sau khi mãn phần hết kiếp vẫn sanh trong quả Địa Cầu nầy, hoặc mình là người thời được sanh làm kiếp con người, có kẻ lại lầm khi mình chết là mất.
Mỗi một bậc khi mãn phần hết kiếp thì từ nơi quả Địa Cầu này, liền thoát sanh qua trăm ngàn quả Địa Cầu khác, đến nơi đồng hợp với Đức Tánh, đồng hợp với cử chỉ liền được sanh nơi đó, rất hiếm bậc đặng đồng sanh nơi mình mới vừa thoát để sanh.
Lại có bậc từ quả Địa Cầu nầy, lúc mãn phần vừa mới được thoát sanh liền được sanh phải lướt qua trăm ngàn Cảnh Giới, hoặc lướt qua trăm ngàn Cõi, Cảnh Giới nào hay Cõi nào đồng hợp với Đức Tánh cử chỉ liền được sanh nơi đó.”
“Quan Âm không thể bắt cầu
Ngón tay Ta chỉ Chư Hầu đều vâng”
Quán Thế Âm Bồ Tát phải lắc đầu cái thời Mạt Kiếp này còn chư hầu là các lãnh tụ trên thế giới không thấy bàn tay Chư Phật ở đâu cũng phải xuôi dòng. Rõ ràng ác trược, phiền não trược đã trở thành
Ngón tay Ta chỉ Chư Hầu đều vâng”
Quán Thế Âm Bồ Tát phải lắc đầu cái thời Mạt Kiếp này còn chư hầu là các lãnh tụ trên thế giới không thấy bàn tay Chư Phật ở đâu cũng phải xuôi dòng. Rõ ràng ác trược, phiền não trược đã trở thành
CỰC LẠC ĐỘ QUỐC ĐỘ AN LẠC.
"Lũ gian ác vô cùng sợ hãi
Người lương hiền chậm rãi bước đi
Nhờ ơn các bậc thần kỳ
Thương người trung hậu hộ trì bình an."
Người lương hiền chậm rãi bước đi
Nhờ ơn các bậc thần kỳ
Thương người trung hậu hộ trì bình an."
“Khi con người hấp hối, thì tiềm thức (hồn khôn) đã có
một phần nào xuống hoặc lên ở một cõi nào rồi, còn phần xác đang nằm trên giường
bệnh hấp hối. Tiềm thức nó lần lượt xuất, lúc trong thân con người xuất, nó
không khác nào hơi khói trong thân bốc lên cứ tuần tự bốc lên mãi đến khi hết cả
đầy đủ tiềm thức thì Vía Dại gọi là cặn bả nghiệp thức nó nhập xuống dưới chân
giường, con người liền tắt hơi, cặn bã nghiệp thức họ thường goi là: HỒN THƯ. Đối
với con người lúc sanh tiền đang còn sống nó có KHÔN và DẠI nên mới có Hồn
Khôn, Vía Dại. Cái Vía Dại này nó rất ảnh hưởng đối với con người, thoát sanh
mau chậm hay còn ái nịch luyến tiếc bà con giòng họ của cải nhiều ít đều do nó
lôi cuốn cả.
Khi tiềm thức bốc lên hư không, Tiềm Thức là một Chất Thanh, còn HỒN THƯ gọi là Vía Dại là Chất Thô, chất Thanh đang còn tập nhiễm nhiều ít chất Thô nên chi Tiềm Thức đã bốc lên hư không, nhưng vì tập nhiễm thành thử chưa dứt khoát về cõi đã sẵn mà thoát sanh hoàn mỹ. Nếu gặp đặng Thiền sư vị này chỉ nhìn vào xác chết đương nhiên hai bên không còn vướng vấp nhau nữa. Bằng gặp đặng bậc Đại Đức (Tôn Giả) lấy công đức nơi mình chú nguyện tự nhiên cũng đặng như trên.
Nên nhớ khi trong nhà tang chủ có người chết không còn có âm khí buồn lạnh đó là cuộc thoát sanh hoàn mỹ, nếu còn âm khí u buồn thì vẫn còn vong linh Tiềm Thức lai vãng, phải chú nguyện đặng thoát sanh.
Các ông cũng nên biết Tiềm Thức thanh chất nó có đặc tánh di chuyển đến nơi chánh báo hoặc chịu báo để kết nạp với Tiểu Ngã nơi cõi hoặc cảnh giới đó, còn HỒN THƯ VÍA DẠI nó nằm yên với Tiểu Ngã đã để lại kết nạp an trụ đứng yên. Cũng như con người đang ở cõi NHÂN được sanh lên cõi Trời. Còn HỒN THƯ VÍA DẠI, nó ở lại CÕI NHÂN kết nạp với TIỂU NGÃ nhân pháp mà an trú. Chờ chừng nào bậc kia đoạt Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, gọi là ĐẠI NGÃ BÁT ĐẠI thì chung gồm bá thiên vạn ức tiểu ngã thảy đặng trở về kết chung với BÁT ĐẠI gọi là Hoàn Mỹ, hoặc Chân Thiện Mỹ Hoàn Lai cũng thế
Đối với con người tốt, hiền lành Đạo Đức đồng với Quảng đại Quang minh, dù cho di chuyển bằng cách nào đi nữa, đến 49 ngày vẫn được thoát sanh, trừ trường hợp ái nịch quá trớn, vong linh lai vãng quá nhiều thì bị sanh lộn kiếp ở trong gia đình. Như bà nội thương cháu nhiều không nở thoát sanh, lưu trú vãng lai thời bà nội lại đầu thai làm em của cháu nội hay làm con của con mình, trường hợp này rất nhiều do ái nịch bị sanh lộn kiếp.”
Năm nay tính theo Phật Lịch đã là năm 2554 ai còn nghiên cứu, học hỏi cho rằng con người chết là hết đã hoàn toàn lầm lẫn. Con chó nó thấy con người sống lâu hơn nó, nó tưởng rằng con người không chết. Con người nghe nói ông Thần sống lâu con người cũng tưởng ông Thần không chết. Con người nghe nói ông Tiên sống lâu, con người cũng lầm, tưởng rằng ông Tiên không chết. Ông Tiên thấy ông Phật Bích Chi hay A LA Hán sống lâu, ông Tiên cũng lầm tưởng ông Phật không chết.
Tất cả có tuổi thọ ngắn, dài khác nhau đều chết. Cho nên con người tưởng rằng về cõi Trời sống đời đời không chết là một lầm lẫn. Có cõi Trời sống đến 2000 tuổi một kiếp là cao. Không ai sống đời đời cả. Trừ bậc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác tức Như Lai – Phật – Thượng Đế mới không còn sanh tử nữa mà thôi. Bậc Thánh được về cõi Trời sống được khoảng 2000 tuổi cũng phải chết lai trần tu hành tiếp, có Cõi Trời sống lâu hơn 10.000 tuổi một kiếp.
Khi tiềm thức bốc lên hư không, Tiềm Thức là một Chất Thanh, còn HỒN THƯ gọi là Vía Dại là Chất Thô, chất Thanh đang còn tập nhiễm nhiều ít chất Thô nên chi Tiềm Thức đã bốc lên hư không, nhưng vì tập nhiễm thành thử chưa dứt khoát về cõi đã sẵn mà thoát sanh hoàn mỹ. Nếu gặp đặng Thiền sư vị này chỉ nhìn vào xác chết đương nhiên hai bên không còn vướng vấp nhau nữa. Bằng gặp đặng bậc Đại Đức (Tôn Giả) lấy công đức nơi mình chú nguyện tự nhiên cũng đặng như trên.
Nên nhớ khi trong nhà tang chủ có người chết không còn có âm khí buồn lạnh đó là cuộc thoát sanh hoàn mỹ, nếu còn âm khí u buồn thì vẫn còn vong linh Tiềm Thức lai vãng, phải chú nguyện đặng thoát sanh.
Các ông cũng nên biết Tiềm Thức thanh chất nó có đặc tánh di chuyển đến nơi chánh báo hoặc chịu báo để kết nạp với Tiểu Ngã nơi cõi hoặc cảnh giới đó, còn HỒN THƯ VÍA DẠI nó nằm yên với Tiểu Ngã đã để lại kết nạp an trụ đứng yên. Cũng như con người đang ở cõi NHÂN được sanh lên cõi Trời. Còn HỒN THƯ VÍA DẠI, nó ở lại CÕI NHÂN kết nạp với TIỂU NGÃ nhân pháp mà an trú. Chờ chừng nào bậc kia đoạt Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, gọi là ĐẠI NGÃ BÁT ĐẠI thì chung gồm bá thiên vạn ức tiểu ngã thảy đặng trở về kết chung với BÁT ĐẠI gọi là Hoàn Mỹ, hoặc Chân Thiện Mỹ Hoàn Lai cũng thế
Đối với con người tốt, hiền lành Đạo Đức đồng với Quảng đại Quang minh, dù cho di chuyển bằng cách nào đi nữa, đến 49 ngày vẫn được thoát sanh, trừ trường hợp ái nịch quá trớn, vong linh lai vãng quá nhiều thì bị sanh lộn kiếp ở trong gia đình. Như bà nội thương cháu nhiều không nở thoát sanh, lưu trú vãng lai thời bà nội lại đầu thai làm em của cháu nội hay làm con của con mình, trường hợp này rất nhiều do ái nịch bị sanh lộn kiếp.”
Năm nay tính theo Phật Lịch đã là năm 2554 ai còn nghiên cứu, học hỏi cho rằng con người chết là hết đã hoàn toàn lầm lẫn. Con chó nó thấy con người sống lâu hơn nó, nó tưởng rằng con người không chết. Con người nghe nói ông Thần sống lâu con người cũng tưởng ông Thần không chết. Con người nghe nói ông Tiên sống lâu, con người cũng lầm, tưởng rằng ông Tiên không chết. Ông Tiên thấy ông Phật Bích Chi hay A LA Hán sống lâu, ông Tiên cũng lầm tưởng ông Phật không chết.
Tất cả có tuổi thọ ngắn, dài khác nhau đều chết. Cho nên con người tưởng rằng về cõi Trời sống đời đời không chết là một lầm lẫn. Có cõi Trời sống đến 2000 tuổi một kiếp là cao. Không ai sống đời đời cả. Trừ bậc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác tức Như Lai – Phật – Thượng Đế mới không còn sanh tử nữa mà thôi. Bậc Thánh được về cõi Trời sống được khoảng 2000 tuổi cũng phải chết lai trần tu hành tiếp, có Cõi Trời sống lâu hơn 10.000 tuổi một kiếp.
“Khi con người lúc còn sống tánh ác nghiệt bị sanh chịu
cơ cực hình không kể hết nổi. Nếu là người dân thường thì tội cá nhân chỉ lãnh
một kiếp.
Còn đối với vua, lãnh tụ, quan quyền một khi đã ác nghiệt phê chỉ làm cho hàng triệu con người phải lầm than đói khổ, gây bao cảnh đau thương mới nên tội A Tỳ Địa Ngục. Vì lẽ ấy mà bậc Minh Vương bậc Vĩ Đại cứu tinh mỗi lần phê chỉ ban hành thảy đều xem xét kỹ càng ích nước lợi dân mới dám phê chỉ.”
Còn đối với vua, lãnh tụ, quan quyền một khi đã ác nghiệt phê chỉ làm cho hàng triệu con người phải lầm than đói khổ, gây bao cảnh đau thương mới nên tội A Tỳ Địa Ngục. Vì lẽ ấy mà bậc Minh Vương bậc Vĩ Đại cứu tinh mỗi lần phê chỉ ban hành thảy đều xem xét kỹ càng ích nước lợi dân mới dám phê chỉ.”
Ban hành điều ác nghiệt sau lúc lâm chung đang nằm
trong phủ Chủ Thủ, dù có đông đủ các cận thần hầu hạ chăng, lãnh tụ cũng bị những
người dân chết oan, chết đau khổ họ cầm gươm, đao đến đâm chém, tiềm thức (hồn
oan) lãnh tụ vẫn nghe la ó, hò hét, sợ hãi, miệng lẩm bẩm nói sảng vội vàng chạy
trốn, dân chúng chết trong đau khổ đuổi theo hạch tội, xiềng xích lãnh tụ, mang
về nhốt vào ngục tối A Tỳ Vô Gián.
A Tỳ Vô Gián là cõi cuộc sống bị áp đặt quá khắc nghiệt, ăn, uống, sinh hoạt luôn có sự giành giựt, không tôn trọng lẽ phải, nơi này không có chùa, đình, miếu, nên ai mạnh người đó được no, luật pháp không được áp dụng, chỉ có luật riêng của mỗi cá nhân là mạnh. Đặc biệt không hề biết gì nhân quyền chớ chẳng phải không có nhân quyền.
Nơi A Tỳ Địa Ngục con người luôn sống trong cảnh rùng rợn của sự tra tấn dã man, nhiều cảnh tra khảo hỏi tội còn khủng khiếp hơn nữa, không bao giờ kể hết những tội mà lãnh tụ và các tham quan hà lạm, hoặc lừa dối dân.
Nói đến cái chết ai nghe qua cũng sợ vì đối với con người sống lo âu, chết sợ sệt là lẽ thường. Còn đối với kẻ bảo chết là hết nên ở thế gian thường liều không sợ gì cả. Con người chết xuống cõi âm hay đến cảnh giới nào họ không bao giờ nhớ họ từ đâu tới. Họ vẫn tưởng ở cõi âm hoặc cảnh giới nó đang ở. Họ quên hẳn họ từ thế gian đến, họ sống tâm trạng như người khách, không hề nhớ ở thế gian mình có vợ, chồng, con cái, thủ lãnh... họ cũng không nhớ nhà cửa, của cải chi cả. Nó cứ đi lang thang mãi. Đến một lúc có một màng bao phủ chụp vào người nó, nó bất tỉnh đó là nó được vào thai.
“Đối với thế gian này cũng như thế, nếu có người nào ở cõi Thiên hay Cõi Âm hoặc Cõi Thần đến lúc mãn phần về Cõi Nhân, họ cũng ngỡ rằng mình ở nhân thế, họ vẫn đi rông đến khi nhập thai bị sanh họ thảy đều quên bản thân của họ ở đâu đến đây, đó chính là một cuộc thay đổi từng nơi này, đến cảnh nọ để mà sanh tử.”
Muốn biết con người khi chết sanh về đâu, chỉ quan sát lúc còn sống từ hành động đến lời nói gây phước điền hay gieo ác căn làm nhiều người đau khổ. Căn cứ vào đó mới xác định đúng đắn họ chết sẽ sanh về đâu rất thực tế không phải do ảo tưởng hay dối trá được.
“Không khác nào với bậc dược sĩ pha các chất chế tạo từng món thuốc, chất gì pha với chất chi được gọi là môn thuốc để trị nhất định mỗi bệnh. Khi con người chết được sanh hay chịu sanh nó cũng tùy theo phẩm dược, tùy nơi chất phẩm đắng cay ngọt bùi nơi nó, lúc còn sống tạo thành mà vào cõi hay các cảnh giới đồng hợp với nó, nó liền hóa sanh nơi cõi ấy hoặc cảnh giới ấy sướng khổ tùy theo được sanh hoặc chịu sanh cũng thế.
Theo thói thường con người, lúc lâm bệnh nó có hai trường hợp đem con người thoát sanh, trường hợp thứ nhất con người bị đau NỘI THƯƠNG thuộc về đau THÂN XÁC, trường hợp thứ hai đau về THƯƠNG HÀN cảm nặng thuộc về TRÍ GIÁC. Hai trường hợp này thường hay bị con người lý đoán về cái chết nơi con người.
Lúc bị đau về THƯƠNG HÀN mê man bất tỉnh, miệng nói lẩm bẩm, sau khi chết, họ cho là người này chết sẽ bị tội chịu sanh khổ sở. Còn có người đau về thân mạng Nội Thương, lúc chết tỉnh táo, nói năng tỏ rõ, họ cho sẽ đặng lên Thiên Đàng hay cõi Trời. Hai lý đoán như thế không thật thảy đều sai chạy.
Nếu con người tự nhận biết được tỏ rõ, sau khi chết sẽ về đâu, thời nên biết lúc còn sống tạo cho đặng PHƯỚC ĐIỀN, tạo cho đặng ĐỨC TÁNH cùng nung đúc tấm lòng nhân đạo chính mình biết thương nơi khổ cực của mọi người, cũng như thương thân mạng mình, chính mình nên đem lời an ủi giúp đỡ cho những người chung quanh mình đã từng bị khổ, làm cho họ đặng an vui ví như mình an vui. Con người cứ làm như thế thời con người ấy sau khi tuổi già có lâm vào tình trạng mắc bệnh THẦN KINH, lúc lâm chung cũng thoát sanh lên cõi Thần hay cõi Thiên. Tâm trí họ liền sáng suốt, còn chứng thần kinh kia nó liền trả lại cho con bệnh thần kinh, chớ không vướng mắc gì đến Chánh Báo thân mạng, đó chính là lời chân thật vậy.
Con người đang ở hiện tại rất cần xây dựng đứng thứ nhất. Bậc đã tạo đặng cơ bản, bản năng làm con người chân chất cao đẹp, dù cho sau này chết bằng cách gì đi nữa cũng đặng Chánh Báo khang trang chớ không bao giờ bị sa địa ngục, ngạ qủy, súc sanh đâu mà sợ, làm con người hiếm người biết xét lại công việc mình đã làm thất đức, hiếm bậc gặp trường hợp họ gây tạo ác nghiệt đến nơi mình mà chính mình tha thứ cho họ.”
Vui mình hưởng mình phải lo cái khổ của người dân, khi họ than phiền kêu la, mình phải xét lại hành động thiện hay ác mà dân phải kêu la. Người dân vô tội không đứng bên này hay bên kia bị khổ sao gọi là anh hùng trưởng thượng được. Con người ở trong giới không bao giờ thấy cái sai của giới mình hết được. Ngoài giới mới thấy. Do như vậy ở trong giới thấy sai, sửa sai liền có cái sai khác. Nếu có lớp người ngoài giới họ chỉ cái sai, cùng nhau sửa sai, đi đến chung cuộc tốt đẹp để cho dân khỏi than phiền trách móc. Đó mới là chân lý.
A Tỳ Vô Gián là cõi cuộc sống bị áp đặt quá khắc nghiệt, ăn, uống, sinh hoạt luôn có sự giành giựt, không tôn trọng lẽ phải, nơi này không có chùa, đình, miếu, nên ai mạnh người đó được no, luật pháp không được áp dụng, chỉ có luật riêng của mỗi cá nhân là mạnh. Đặc biệt không hề biết gì nhân quyền chớ chẳng phải không có nhân quyền.
Nơi A Tỳ Địa Ngục con người luôn sống trong cảnh rùng rợn của sự tra tấn dã man, nhiều cảnh tra khảo hỏi tội còn khủng khiếp hơn nữa, không bao giờ kể hết những tội mà lãnh tụ và các tham quan hà lạm, hoặc lừa dối dân.
Nói đến cái chết ai nghe qua cũng sợ vì đối với con người sống lo âu, chết sợ sệt là lẽ thường. Còn đối với kẻ bảo chết là hết nên ở thế gian thường liều không sợ gì cả. Con người chết xuống cõi âm hay đến cảnh giới nào họ không bao giờ nhớ họ từ đâu tới. Họ vẫn tưởng ở cõi âm hoặc cảnh giới nó đang ở. Họ quên hẳn họ từ thế gian đến, họ sống tâm trạng như người khách, không hề nhớ ở thế gian mình có vợ, chồng, con cái, thủ lãnh... họ cũng không nhớ nhà cửa, của cải chi cả. Nó cứ đi lang thang mãi. Đến một lúc có một màng bao phủ chụp vào người nó, nó bất tỉnh đó là nó được vào thai.
“Đối với thế gian này cũng như thế, nếu có người nào ở cõi Thiên hay Cõi Âm hoặc Cõi Thần đến lúc mãn phần về Cõi Nhân, họ cũng ngỡ rằng mình ở nhân thế, họ vẫn đi rông đến khi nhập thai bị sanh họ thảy đều quên bản thân của họ ở đâu đến đây, đó chính là một cuộc thay đổi từng nơi này, đến cảnh nọ để mà sanh tử.”
Muốn biết con người khi chết sanh về đâu, chỉ quan sát lúc còn sống từ hành động đến lời nói gây phước điền hay gieo ác căn làm nhiều người đau khổ. Căn cứ vào đó mới xác định đúng đắn họ chết sẽ sanh về đâu rất thực tế không phải do ảo tưởng hay dối trá được.
“Không khác nào với bậc dược sĩ pha các chất chế tạo từng món thuốc, chất gì pha với chất chi được gọi là môn thuốc để trị nhất định mỗi bệnh. Khi con người chết được sanh hay chịu sanh nó cũng tùy theo phẩm dược, tùy nơi chất phẩm đắng cay ngọt bùi nơi nó, lúc còn sống tạo thành mà vào cõi hay các cảnh giới đồng hợp với nó, nó liền hóa sanh nơi cõi ấy hoặc cảnh giới ấy sướng khổ tùy theo được sanh hoặc chịu sanh cũng thế.
Theo thói thường con người, lúc lâm bệnh nó có hai trường hợp đem con người thoát sanh, trường hợp thứ nhất con người bị đau NỘI THƯƠNG thuộc về đau THÂN XÁC, trường hợp thứ hai đau về THƯƠNG HÀN cảm nặng thuộc về TRÍ GIÁC. Hai trường hợp này thường hay bị con người lý đoán về cái chết nơi con người.
Lúc bị đau về THƯƠNG HÀN mê man bất tỉnh, miệng nói lẩm bẩm, sau khi chết, họ cho là người này chết sẽ bị tội chịu sanh khổ sở. Còn có người đau về thân mạng Nội Thương, lúc chết tỉnh táo, nói năng tỏ rõ, họ cho sẽ đặng lên Thiên Đàng hay cõi Trời. Hai lý đoán như thế không thật thảy đều sai chạy.
Nếu con người tự nhận biết được tỏ rõ, sau khi chết sẽ về đâu, thời nên biết lúc còn sống tạo cho đặng PHƯỚC ĐIỀN, tạo cho đặng ĐỨC TÁNH cùng nung đúc tấm lòng nhân đạo chính mình biết thương nơi khổ cực của mọi người, cũng như thương thân mạng mình, chính mình nên đem lời an ủi giúp đỡ cho những người chung quanh mình đã từng bị khổ, làm cho họ đặng an vui ví như mình an vui. Con người cứ làm như thế thời con người ấy sau khi tuổi già có lâm vào tình trạng mắc bệnh THẦN KINH, lúc lâm chung cũng thoát sanh lên cõi Thần hay cõi Thiên. Tâm trí họ liền sáng suốt, còn chứng thần kinh kia nó liền trả lại cho con bệnh thần kinh, chớ không vướng mắc gì đến Chánh Báo thân mạng, đó chính là lời chân thật vậy.
Con người đang ở hiện tại rất cần xây dựng đứng thứ nhất. Bậc đã tạo đặng cơ bản, bản năng làm con người chân chất cao đẹp, dù cho sau này chết bằng cách gì đi nữa cũng đặng Chánh Báo khang trang chớ không bao giờ bị sa địa ngục, ngạ qủy, súc sanh đâu mà sợ, làm con người hiếm người biết xét lại công việc mình đã làm thất đức, hiếm bậc gặp trường hợp họ gây tạo ác nghiệt đến nơi mình mà chính mình tha thứ cho họ.”
Vui mình hưởng mình phải lo cái khổ của người dân, khi họ than phiền kêu la, mình phải xét lại hành động thiện hay ác mà dân phải kêu la. Người dân vô tội không đứng bên này hay bên kia bị khổ sao gọi là anh hùng trưởng thượng được. Con người ở trong giới không bao giờ thấy cái sai của giới mình hết được. Ngoài giới mới thấy. Do như vậy ở trong giới thấy sai, sửa sai liền có cái sai khác. Nếu có lớp người ngoài giới họ chỉ cái sai, cùng nhau sửa sai, đi đến chung cuộc tốt đẹp để cho dân khỏi than phiền trách móc. Đó mới là chân lý.
Như các nước Tây Phương tiến bộ nhanh chóng, dân ấm no là nhờ vậy.
Bậc trưởng thượng về mặt tín ngưỡng không phân biệt tôn giáo nào, nếu tôn giáo nào dạy con người tín tâm biết làm điều thiện, biết kiên nhẫn, có lòng thương người mình nên để yên, không nên buộc phải làm như thế này, phải làm như thế nọ. Bậc trưởng thượng cai trị dân như thế này khi lâm chung sẽ được Phước Báo Nhân Thiên.
Người cho đàn cháu sát sanh thân mạng, lúc lâm chung thường bị loài mình giết đến đòi mạng, nếu không tin có Thần Thánh, giết bậc tu có đức độ cao hậu qủa ở địa ngục nhiều đời kiếp khổ sở không kể xiết. Đoạn kinh sau đây do Đức Quảng An ghi lại:
“Ta đã từng nhập vào chánh định, đã từng gặp các Chư Thần ở cõi Trời hay cứu giúp nhân gian, từ Thần Hoàng đến Thần Miếu qua Thần Thánh lại Thánh Quân cùng Thánh Mẫu thảy đều phàn nàn phiền trách với Ta rằng: Kính thưa Thiền Sư. Chúng tôi toàn Chánh Trực Quang Minh Thần. Chúng tôi không thiếu chi món ẩm thực hương vị ngọt ngào cao quý, thanh thoát thơm tho. Chúng tôi thấy dương gian gây tạo ác nghiệp nên có ác căn tai nạn xảy đến cho họ liên miên. Họ lại có lòng thờ phụng cung kính van cầu chúng tôi, chúng tôi động lòng ra tay cứu độ cho họ thoát khỏi tai ách.
Mỗi lần chúng tôi giáng trần, đến nơi đình miếu thì hỡi ơi! Trước mặt chúng tôi họ đặt rất nhiều xác chết, thiêu đốt luộc quay. Chúng tôi làm sao nói đặng? Đứng nơi lòng thành hòa lẫn ác nghiệp, buộc lòng chúng tôi cứu nạn với lòng thành. Con người họ vì tục lệ, họ vì ưa thích nên họ tưởng chúng tôi ưa thích gà vịt, heo quay, bò tái, rượu nếp, canh xôi thật ra chẳng biết nói sao hơn, việc đó chưa phải tín chủ mà bọn tế lễ tham ăn dục lợi, khiến con người phải làm như thế. Chúng tôi mong Thiền Sư đương thời Hạ Lai này, nói lên lời nói giúp chúng tôi khỏi phải mang tiếng tế thần bằng lối sát sanh như vậy, thưa gởi xong liền chầu Trời.”
Còn bậc Thánh dù bị đánh đập, bị hành hạ trong lúc lâm nạn không hờn giận kẻ đối phương, dù thoát sinh bằng lối xác thân khổ đau vẫn được đầy đủ chánh báo về với Như Lai. Người Vô Hình, Thần, Long Thần thân họ kết bằng mây, y như khói kết lại thành thân ăn mặc giống như hồi còn sống ở thế gian. Nhìn rất rõ ràng. Con người chết tánh xấu thành ma, tánh độc thành qủy, thân họ cũng kết bằng khói như mây. Khi đi dáng giống như con cá bị thương đang bơi lờ đờ.
Thấy lúc đang thức chứ không phải Thiền hay nằm mơ. Chỉ con mắt Thiền Sư mới thấy rõ ràng như tiếp xúc với người thường ở thế gian. Còn chúng sanh không thấy do tánh nóng, buồn khổ... làm ngăn che. Con mắt nhục nhãn của nhân sinh cũng không thấy được.
Chư Thần thường vị nào thân hình cũng vạm vỡ như người Phương Tây, nước da ngâm đen, có lòng thương người, nếu có người tin, xin vẫn thường được Thần giúp đỡ rất kết quả.
Bậc trưởng thượng về mặt tín ngưỡng không phân biệt tôn giáo nào, nếu tôn giáo nào dạy con người tín tâm biết làm điều thiện, biết kiên nhẫn, có lòng thương người mình nên để yên, không nên buộc phải làm như thế này, phải làm như thế nọ. Bậc trưởng thượng cai trị dân như thế này khi lâm chung sẽ được Phước Báo Nhân Thiên.
Người cho đàn cháu sát sanh thân mạng, lúc lâm chung thường bị loài mình giết đến đòi mạng, nếu không tin có Thần Thánh, giết bậc tu có đức độ cao hậu qủa ở địa ngục nhiều đời kiếp khổ sở không kể xiết. Đoạn kinh sau đây do Đức Quảng An ghi lại:
“Ta đã từng nhập vào chánh định, đã từng gặp các Chư Thần ở cõi Trời hay cứu giúp nhân gian, từ Thần Hoàng đến Thần Miếu qua Thần Thánh lại Thánh Quân cùng Thánh Mẫu thảy đều phàn nàn phiền trách với Ta rằng: Kính thưa Thiền Sư. Chúng tôi toàn Chánh Trực Quang Minh Thần. Chúng tôi không thiếu chi món ẩm thực hương vị ngọt ngào cao quý, thanh thoát thơm tho. Chúng tôi thấy dương gian gây tạo ác nghiệp nên có ác căn tai nạn xảy đến cho họ liên miên. Họ lại có lòng thờ phụng cung kính van cầu chúng tôi, chúng tôi động lòng ra tay cứu độ cho họ thoát khỏi tai ách.
Mỗi lần chúng tôi giáng trần, đến nơi đình miếu thì hỡi ơi! Trước mặt chúng tôi họ đặt rất nhiều xác chết, thiêu đốt luộc quay. Chúng tôi làm sao nói đặng? Đứng nơi lòng thành hòa lẫn ác nghiệp, buộc lòng chúng tôi cứu nạn với lòng thành. Con người họ vì tục lệ, họ vì ưa thích nên họ tưởng chúng tôi ưa thích gà vịt, heo quay, bò tái, rượu nếp, canh xôi thật ra chẳng biết nói sao hơn, việc đó chưa phải tín chủ mà bọn tế lễ tham ăn dục lợi, khiến con người phải làm như thế. Chúng tôi mong Thiền Sư đương thời Hạ Lai này, nói lên lời nói giúp chúng tôi khỏi phải mang tiếng tế thần bằng lối sát sanh như vậy, thưa gởi xong liền chầu Trời.”
Còn bậc Thánh dù bị đánh đập, bị hành hạ trong lúc lâm nạn không hờn giận kẻ đối phương, dù thoát sinh bằng lối xác thân khổ đau vẫn được đầy đủ chánh báo về với Như Lai. Người Vô Hình, Thần, Long Thần thân họ kết bằng mây, y như khói kết lại thành thân ăn mặc giống như hồi còn sống ở thế gian. Nhìn rất rõ ràng. Con người chết tánh xấu thành ma, tánh độc thành qủy, thân họ cũng kết bằng khói như mây. Khi đi dáng giống như con cá bị thương đang bơi lờ đờ.
Thấy lúc đang thức chứ không phải Thiền hay nằm mơ. Chỉ con mắt Thiền Sư mới thấy rõ ràng như tiếp xúc với người thường ở thế gian. Còn chúng sanh không thấy do tánh nóng, buồn khổ... làm ngăn che. Con mắt nhục nhãn của nhân sinh cũng không thấy được.
Chư Thần thường vị nào thân hình cũng vạm vỡ như người Phương Tây, nước da ngâm đen, có lòng thương người, nếu có người tin, xin vẫn thường được Thần giúp đỡ rất kết quả.
“Các ông cũng nên biết: Khi bậc đã có phước điền, có một
đức tin làm lành thời có nơi chốn chứng minh, có vị Thánh đỡ đầu. Lúc lâm
chung, tiềm thức bay bổng lên hư không, miệng liền niệm danh hiệu tôn giáo Đức
tin của mình tùy mỗi con người tin mà phát niệm, liền khi đó có tia sáng Hồng
Quang về cõi Thần, có tia sáng Thanh Quang về cõi Trời làm dân, có tia sáng Bạch
Quang về cõi Trời làm Quan, có tia Huỳnh Quang về Cực Lạc.
Có lúc con người thật tốt nhưng chưa đặng Đức tin vững, vừa lên đến hư không, vui mừng đi dạo khắp vũ trụ, nhưng không bao giờ thấy đặng các cõi, các cảnh giới, đến sau tâm thần bớt khoan khoái lờ đờ, khi tĩnh lúc mơ, nhớ đâu gặp đó, liền đến Thần Hoàng Miếu Võ mà ở liền trở thành Thần Núi Nhân Gian, hoặc gặp phải Tia Sáng Đủ Màu liền được về nhân thế mà thai sanh con nhà giàu có để tu hành.
Trái lại có bậc thật tốt nhưng quá chơi bời, đình trà tửu điếm. Lúc sanh tiền bạn bè thân hữu nhiều nơi, thường vui chung cùng chúng bạn. Đến giai đoạn trên dạo chơi khắp nơi, liền đến chốn ca xướng ăn chơi nhảy múa, liền nhập bọn ở nơi đó say mê lâu ngày vẫn bị tấm màn bao phủ thụ thai vào súc sanh giới. Nếu lối chơi thanh bai qúy phái mà có công đức cao dầy thanh thoát thì đặng thụ thai Cõi Trời Lục Dục Thiên an hưởng.” chứng minh con người không phải chết là hết, mà còn trả nợ ở hành động, lời nói ở thế gian, sau đó nhập thai tùy xứ sở do mình gây tạo ra. Bậc tu có dày công đức rất thương chúng sinh lầm mê, không bao giờ có ý nghĩ hay hành động tổn thương đến chúng sinh bao giờ. Con người có quyền không tin tôn giáo, không tin bậc tu nhưng nếu chúng sinh cố ý va chạm, cố ý hại thì hậu quả nhiều đời kiếp không lường hết nổi, bị cảnh thảm sầu trong hiện tại và mãi mãi tương lai ở Địa ngục
Có lúc con người thật tốt nhưng chưa đặng Đức tin vững, vừa lên đến hư không, vui mừng đi dạo khắp vũ trụ, nhưng không bao giờ thấy đặng các cõi, các cảnh giới, đến sau tâm thần bớt khoan khoái lờ đờ, khi tĩnh lúc mơ, nhớ đâu gặp đó, liền đến Thần Hoàng Miếu Võ mà ở liền trở thành Thần Núi Nhân Gian, hoặc gặp phải Tia Sáng Đủ Màu liền được về nhân thế mà thai sanh con nhà giàu có để tu hành.
Trái lại có bậc thật tốt nhưng quá chơi bời, đình trà tửu điếm. Lúc sanh tiền bạn bè thân hữu nhiều nơi, thường vui chung cùng chúng bạn. Đến giai đoạn trên dạo chơi khắp nơi, liền đến chốn ca xướng ăn chơi nhảy múa, liền nhập bọn ở nơi đó say mê lâu ngày vẫn bị tấm màn bao phủ thụ thai vào súc sanh giới. Nếu lối chơi thanh bai qúy phái mà có công đức cao dầy thanh thoát thì đặng thụ thai Cõi Trời Lục Dục Thiên an hưởng.” chứng minh con người không phải chết là hết, mà còn trả nợ ở hành động, lời nói ở thế gian, sau đó nhập thai tùy xứ sở do mình gây tạo ra. Bậc tu có dày công đức rất thương chúng sinh lầm mê, không bao giờ có ý nghĩ hay hành động tổn thương đến chúng sinh bao giờ. Con người có quyền không tin tôn giáo, không tin bậc tu nhưng nếu chúng sinh cố ý va chạm, cố ý hại thì hậu quả nhiều đời kiếp không lường hết nổi, bị cảnh thảm sầu trong hiện tại và mãi mãi tương lai ở Địa ngục
- Đức Bảo Tạng Phật khuyên Đức Di Lạc Vương Tôn Phật viết
Kinh.
- Đức Di Lạc: Thưa viết đâu có ai đọc.
- Đức Bảo Tạng Phật: Ông cứ viết đời này không đọc hiểu những đời kế tiếp tu tự tánh họ đọc sẽ hiểu.Theo Kinh Đại Tập, sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Bát Đại Niết Bàn, đến nay đã 2554 năm được phân làm 5 thời kỳ.
Một là 500 năm thứ nhất thuộc thời kỳ Tri Kiến Giải Thoát. Trong thời này những chân tử của Đức Phật chịu tu theo y tôn, y chỉ, chịu tu SỬA TÁNH để TỰ TÁNH TỎ TÁNH, Minh Tâm, giải tật xấu, tu theo giáo pháp Phật, Thiền Định, Trí Tuệ thông Được Tri Kiến Giải Thoát.
Hai là 500 năm thứ hai, thuộc thời kỳ THIỀN ĐỊNH. Trong thời này phần nhiều các Chân Tử tu tinh tấn, trí tuệ thanh tịnh, y giáo lý Phật tu thiền định, tùy công năng, công đức mà được chứng ngộ hữu lậu của Tiểu Thừa, cùng vô lậu của Đại Thừa.
Ba là 500 năm thứ ba, thuộc thời kỳ Đa Văn. Trong thời này các chân tử y theo 12 bộ Kinh Phật mà tu hành, nghiên cứu, tranh luận Hiển, Mật, Đốn, Tiệm giáo. Con đường TỰ TÁNH TỎ TÁNH NHẸ DẦN.
Bốn là 500 năm thứ tư thuộc thời kỳ chùa Tháp. Trong thời này, phần nhiều Bậc tín tâm QUÊN HẾT TỰ TÁNH TỎ TÁNH, sự tu hành chẳng cầu giải thoát nữa, thích công đức hữu lậu, tu như vậy sau khi chết được Phước Báo Nhân Thiên.
Năm là 500 năm thứ năm. Thời kỳ này người TU MẤT HẲN TỰ TÁNH, hay đấu tranh nhau, ghét, thương, ganh tỵ, nghi ngờ tồi phá lẫn nhau. Đặc biệt là chấp chỗ học vấn có bằng cấp cao, nghiên cứu nhiều Kinh Phật rồi cho mình đúng, tồi phá tranh giành, giết, hại nhau để đoạt danh, trục lợi.
Năm thời kỳ này kéo dài trên 2500 năm tính theo Phật Lịch, xã hội VIỆT NAM cho đến hiện tình hỗn loạn trên thế giới, đã rơi trong thời kỳ Mạt Pháp, khiến nhiều Bậc học giả cho rằng thời kỳ này đã đến lúc Đức Di Lạc Hạ Lai.
Như đã chứng minh ở phần trước, Đức Đại Lực Di Lạc Vương Tôn Phật đã ra đời từ năm 1969 đến nay Khắp trong Tam Thiên Đại Thiên Thế giới, Ngài đều từng lúc, từng khi xuất Chánh Định đến nơi khai đạo và đem lại tự do cho tứ loài.
Ngài nguyện gánh vác tất cả các pháp để chúng sinh được thảnh thơi tu hành như những bậc tín tâm đều biết. Qua Hịch chứng minh vũ trụ, Ngài đã hoá giải sạch sẽ độc nhiễm trên thế giới, ngày nay và hậu lai được tu hành, dần dần sẽ được an lạc. Ngài nguyện đem tất cả bảo pháp đương thời Hạ Lai cứu độ chúng sanh, đưa tất cả chúng sanh tu tập pháp môn Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp Mà Không Nhiễm, đặng tự tại, vô ngại đến Đại Bi, Tổng Trì Đà La Ni Tạng Tri Kiến Giải Thoát
- Đức Di Lạc: Thưa viết đâu có ai đọc.
- Đức Bảo Tạng Phật: Ông cứ viết đời này không đọc hiểu những đời kế tiếp tu tự tánh họ đọc sẽ hiểu.Theo Kinh Đại Tập, sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Bát Đại Niết Bàn, đến nay đã 2554 năm được phân làm 5 thời kỳ.
Một là 500 năm thứ nhất thuộc thời kỳ Tri Kiến Giải Thoát. Trong thời này những chân tử của Đức Phật chịu tu theo y tôn, y chỉ, chịu tu SỬA TÁNH để TỰ TÁNH TỎ TÁNH, Minh Tâm, giải tật xấu, tu theo giáo pháp Phật, Thiền Định, Trí Tuệ thông Được Tri Kiến Giải Thoát.
Hai là 500 năm thứ hai, thuộc thời kỳ THIỀN ĐỊNH. Trong thời này phần nhiều các Chân Tử tu tinh tấn, trí tuệ thanh tịnh, y giáo lý Phật tu thiền định, tùy công năng, công đức mà được chứng ngộ hữu lậu của Tiểu Thừa, cùng vô lậu của Đại Thừa.
Ba là 500 năm thứ ba, thuộc thời kỳ Đa Văn. Trong thời này các chân tử y theo 12 bộ Kinh Phật mà tu hành, nghiên cứu, tranh luận Hiển, Mật, Đốn, Tiệm giáo. Con đường TỰ TÁNH TỎ TÁNH NHẸ DẦN.
Bốn là 500 năm thứ tư thuộc thời kỳ chùa Tháp. Trong thời này, phần nhiều Bậc tín tâm QUÊN HẾT TỰ TÁNH TỎ TÁNH, sự tu hành chẳng cầu giải thoát nữa, thích công đức hữu lậu, tu như vậy sau khi chết được Phước Báo Nhân Thiên.
Năm là 500 năm thứ năm. Thời kỳ này người TU MẤT HẲN TỰ TÁNH, hay đấu tranh nhau, ghét, thương, ganh tỵ, nghi ngờ tồi phá lẫn nhau. Đặc biệt là chấp chỗ học vấn có bằng cấp cao, nghiên cứu nhiều Kinh Phật rồi cho mình đúng, tồi phá tranh giành, giết, hại nhau để đoạt danh, trục lợi.
Năm thời kỳ này kéo dài trên 2500 năm tính theo Phật Lịch, xã hội VIỆT NAM cho đến hiện tình hỗn loạn trên thế giới, đã rơi trong thời kỳ Mạt Pháp, khiến nhiều Bậc học giả cho rằng thời kỳ này đã đến lúc Đức Di Lạc Hạ Lai.
Như đã chứng minh ở phần trước, Đức Đại Lực Di Lạc Vương Tôn Phật đã ra đời từ năm 1969 đến nay Khắp trong Tam Thiên Đại Thiên Thế giới, Ngài đều từng lúc, từng khi xuất Chánh Định đến nơi khai đạo và đem lại tự do cho tứ loài.
Ngài nguyện gánh vác tất cả các pháp để chúng sinh được thảnh thơi tu hành như những bậc tín tâm đều biết. Qua Hịch chứng minh vũ trụ, Ngài đã hoá giải sạch sẽ độc nhiễm trên thế giới, ngày nay và hậu lai được tu hành, dần dần sẽ được an lạc. Ngài nguyện đem tất cả bảo pháp đương thời Hạ Lai cứu độ chúng sanh, đưa tất cả chúng sanh tu tập pháp môn Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp Mà Không Nhiễm, đặng tự tại, vô ngại đến Đại Bi, Tổng Trì Đà La Ni Tạng Tri Kiến Giải Thoát
Đức Di Lạc Vương Tôn Phật thị chứng sự tu hành thời Hạ
Lai Mạt Pháp, Qua thời Hạ Lai Mạt Pháp có giáo lý nhưng kém thi hành, thành thử
hiếm hoi thực chứng. Nơi kinh pháp
có thực hành liền có sở đắc, chưa thực hành thì kinh pháp kia trở thành lý thuyết.
Tu có chứng tri chăng cũng là chứng tri trên giả thuyết, biện tài chớ chẳng phải
là thực chứng.”
Sự tu hành không đem đến phá mê chấp để hiểu biết thì dù cho tu đến một ngàn kiếp cũng không lấy được một ngày tu. Đã là chúng sinh thì trí còn thấp kém, nếu đủ căn cơ, Phật ra đời ắt phải gặp. Căn cơ là các bậc từng tu cầu tri kiến giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, còn chúng sinh lấy nhân duyên nên sự tu hành theo ý muốn. Sự tu hành theo vọng cầu ý muốn nhưng không hiểu vọng cầu đó là cái gì, ý muốn nó sẽ đưa ta về đâu. Do đó ta phải HÀNH sẽ được lợi ích vô kể. Như thế nào gọi là Hành? Hành là chuyên tu sửa tánh, đó là đường đi HÀNH GIÁC. Hành còn có nghĩa Hành Thâm Pháp giới để tỏ giới. Mỗi pháp giới là một tánh, sửa nhiều lần sẽ thâm nhập được Thiện Căn không còn độc, lại tự mình thấy được tánh tỏ tánh. Bậc tu biết sửa sai lầm sẽ có Trí Tuệ. Trí tuệ là cứu cánh của giải thoát.
Đã là chúng sinh tất nhiên phải bị mê lầm, dù tu lâu đến đâu cũng không thoát được mê lầm, nên chi miệng nói là TÂM nó chưa biết
“Vì miệng nói Tâm chưa biết nên bậc Thiện Trí Thức mới khuyên – Miệng nói Tâm chưa biết thì cần phải học lại lời nói đã nói nơi miệng đi. Đến chừng miệng nói Tâm biết, hay Tâm đã biết miệng mới nói, đó gọi là Giác Tâm Tỏ Pháp.
Tình trạng này thời Đức Bổn Sư vẫn thường có Chư Tôn Giả đã từng thuyết pháp, có lúc thời pháp quá tầm tuyệt mỹ. Thế Tôn mới khai thị: Ông NƯƠNG VÀO CÔNG ĐỨC NHƯ LAI mới nói được như thế. Chừng đó Tôn Giả mới nhận biết, khi miệng nói tâm chưa biết, cần học lại lời nói của miệng. Đối với chúng sinh đang mơ màng, còn vọng tưởng, còn viễn vọng rất dễ lầm nhận, vẫn yên trí rằng miệng mình đã nói đương nhiên mình đã giác, dù muốn hoặc giả chưa muốn cũng bị lầm.”
Trong lộ trình hành đạo, đã có lúc Ngài gặp Hòa Thượng, Đại Đức, Tăng Ni ở chùa, Ngài khai một câu, chư vị này không nhận được lại giảng cho Ngài nghe cả chục câu! Có lần Ngài tìm đủ phương tiện làm cho sư khất sĩ tin để khai cho Tri Kiến Phật nhưng vị này không đủ công năng công đức để thọ nhận. Cuối cùng Ngài hiện thân cho làm bạn. Sư chỉ khen Ngài biện tài giỏi chớ không nhận được lời khai thị của Ngài.
“Khi Đức Thích Ca chưa thành Phật, đang còn là tu sĩ, Ngài đến cung kính cúng dường, chiêm ngưỡng lễ bái Đức Nhiên Đăng Phật. Đức Nhiên Đăng Phật mới thọ ký thời Trung Kiếp thành Phật với hiệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau Đức Bổn Sư thể hiện chỉ đạo thọ ký Di Lạc Tôn Phật cùng các hàng Bồ Tát đến các bậc vô học, hữu học đều thành Phật của mỗi thời tuỳ hỷ, nơi Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đó là lời chân thành quyết định.
Thời này bậc tín tâm tu hành nhiều vô số, vô lượng, vô biên nhưng lại kém căn cơ nên rất hiếm thành Phật mà đa số thành Tiên Đạo gọi là Đắc quả. Đến sau này nữa càng sa sút chánh tín liền Đắc quả nơi THẦN – THÁNH ĐẠO.
Thần đạo dùng bùa chú luyện thần thông trở thành cuồng tín phải chịu nơi sanh – bệnh – lão – tử khổ.”
Thế nào gọi là Đắc Quả thành Tiên đạo?
Chuyên học, nghiên cứu kinh sách, đi đứng thanh bai, chỗ ở đẹp đẽ khang trang, ăn chay trường, tu tịnh không tu pháp động. Gặp hoàn cảnh thuận an vui, gặp nghịch cảnh tránh, không ưa. Chọn sạch bỏ dơ... Tu như vậy lúc lâm chung được về cõi Tiên hưởng phước báo Nhân Thiên. Đến chừng hết kiếp ở cõi Tiên bị đầu thai làm người hay các cảnh giới khác tu lại từ đầu.
Thiền sư nào đã từng xuất định đến cõi Tiên mới chứng kiến sự thật: Ăn, mặc, đồ dùng đều có sẵn. Không cần làm cũng có ăn. Muốn gì vừa ước ao liền có. Dùng thần thông hoá ra nên được như ý muốn. Đồ đạc, vật dụng rất đẹp. Một điều đặc biệt là ở cõi Tiên không có ánh nắng mặt trời. Ánh sáng từ vách núi chiếu ra, lúc nào cũng nắng dịu, không khí như ở trong phòng có máy điều hoà. Ở ngoài đường không khí cũng giống như vậy.
Người Tiên tánh tình rộng rãi thương người nhưng còn tánh nóng, học trò không ai dám cãi lại Thầy, gặp người nào cũng nói năng hòa nhã.
Sự tu hành không đem đến phá mê chấp để hiểu biết thì dù cho tu đến một ngàn kiếp cũng không lấy được một ngày tu. Đã là chúng sinh thì trí còn thấp kém, nếu đủ căn cơ, Phật ra đời ắt phải gặp. Căn cơ là các bậc từng tu cầu tri kiến giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, còn chúng sinh lấy nhân duyên nên sự tu hành theo ý muốn. Sự tu hành theo vọng cầu ý muốn nhưng không hiểu vọng cầu đó là cái gì, ý muốn nó sẽ đưa ta về đâu. Do đó ta phải HÀNH sẽ được lợi ích vô kể. Như thế nào gọi là Hành? Hành là chuyên tu sửa tánh, đó là đường đi HÀNH GIÁC. Hành còn có nghĩa Hành Thâm Pháp giới để tỏ giới. Mỗi pháp giới là một tánh, sửa nhiều lần sẽ thâm nhập được Thiện Căn không còn độc, lại tự mình thấy được tánh tỏ tánh. Bậc tu biết sửa sai lầm sẽ có Trí Tuệ. Trí tuệ là cứu cánh của giải thoát.
Đã là chúng sinh tất nhiên phải bị mê lầm, dù tu lâu đến đâu cũng không thoát được mê lầm, nên chi miệng nói là TÂM nó chưa biết
“Vì miệng nói Tâm chưa biết nên bậc Thiện Trí Thức mới khuyên – Miệng nói Tâm chưa biết thì cần phải học lại lời nói đã nói nơi miệng đi. Đến chừng miệng nói Tâm biết, hay Tâm đã biết miệng mới nói, đó gọi là Giác Tâm Tỏ Pháp.
Tình trạng này thời Đức Bổn Sư vẫn thường có Chư Tôn Giả đã từng thuyết pháp, có lúc thời pháp quá tầm tuyệt mỹ. Thế Tôn mới khai thị: Ông NƯƠNG VÀO CÔNG ĐỨC NHƯ LAI mới nói được như thế. Chừng đó Tôn Giả mới nhận biết, khi miệng nói tâm chưa biết, cần học lại lời nói của miệng. Đối với chúng sinh đang mơ màng, còn vọng tưởng, còn viễn vọng rất dễ lầm nhận, vẫn yên trí rằng miệng mình đã nói đương nhiên mình đã giác, dù muốn hoặc giả chưa muốn cũng bị lầm.”
Trong lộ trình hành đạo, đã có lúc Ngài gặp Hòa Thượng, Đại Đức, Tăng Ni ở chùa, Ngài khai một câu, chư vị này không nhận được lại giảng cho Ngài nghe cả chục câu! Có lần Ngài tìm đủ phương tiện làm cho sư khất sĩ tin để khai cho Tri Kiến Phật nhưng vị này không đủ công năng công đức để thọ nhận. Cuối cùng Ngài hiện thân cho làm bạn. Sư chỉ khen Ngài biện tài giỏi chớ không nhận được lời khai thị của Ngài.
“Khi Đức Thích Ca chưa thành Phật, đang còn là tu sĩ, Ngài đến cung kính cúng dường, chiêm ngưỡng lễ bái Đức Nhiên Đăng Phật. Đức Nhiên Đăng Phật mới thọ ký thời Trung Kiếp thành Phật với hiệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau Đức Bổn Sư thể hiện chỉ đạo thọ ký Di Lạc Tôn Phật cùng các hàng Bồ Tát đến các bậc vô học, hữu học đều thành Phật của mỗi thời tuỳ hỷ, nơi Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đó là lời chân thành quyết định.
Thời này bậc tín tâm tu hành nhiều vô số, vô lượng, vô biên nhưng lại kém căn cơ nên rất hiếm thành Phật mà đa số thành Tiên Đạo gọi là Đắc quả. Đến sau này nữa càng sa sút chánh tín liền Đắc quả nơi THẦN – THÁNH ĐẠO.
Thần đạo dùng bùa chú luyện thần thông trở thành cuồng tín phải chịu nơi sanh – bệnh – lão – tử khổ.”
Thế nào gọi là Đắc Quả thành Tiên đạo?
Chuyên học, nghiên cứu kinh sách, đi đứng thanh bai, chỗ ở đẹp đẽ khang trang, ăn chay trường, tu tịnh không tu pháp động. Gặp hoàn cảnh thuận an vui, gặp nghịch cảnh tránh, không ưa. Chọn sạch bỏ dơ... Tu như vậy lúc lâm chung được về cõi Tiên hưởng phước báo Nhân Thiên. Đến chừng hết kiếp ở cõi Tiên bị đầu thai làm người hay các cảnh giới khác tu lại từ đầu.
Thiền sư nào đã từng xuất định đến cõi Tiên mới chứng kiến sự thật: Ăn, mặc, đồ dùng đều có sẵn. Không cần làm cũng có ăn. Muốn gì vừa ước ao liền có. Dùng thần thông hoá ra nên được như ý muốn. Đồ đạc, vật dụng rất đẹp. Một điều đặc biệt là ở cõi Tiên không có ánh nắng mặt trời. Ánh sáng từ vách núi chiếu ra, lúc nào cũng nắng dịu, không khí như ở trong phòng có máy điều hoà. Ở ngoài đường không khí cũng giống như vậy.
Người Tiên tánh tình rộng rãi thương người nhưng còn tánh nóng, học trò không ai dám cãi lại Thầy, gặp người nào cũng nói năng hòa nhã.
“Rượu Thiên Tiên uống hãy còn thèm
Mà nơi nhân thế xuân đem mấy lần.” Ở cõi Tiên ngồi đánh cờ, uống rượu chưa tàn một buổi tiệc mà ở thế gian đã mất 3 đến 4 năm. Một năm ở cõi Tiên phải là một trăm năm ở thế gian!
Chư Thần ở cõi Trời hay dùng bùa chú, tính tình thương người nhưng rất nóng tính. Không khí ở cõi Trời cũng mát dịu như ở trong phòng điều hòa không khí. Cũng có vị như ở thế gian như Đình, Miếu, gốc cây cổ thụ, núi, sông. Hết kiếp vẫn sinh tử luân hồi. Do vậy mà sự tu hành đúng con đường Giác Ngộ thật khó khăn vô kể! Vì khó như vậy mà bậc tu hành phải có đường lối hay pháp môn do Bậc Thiện Tri thức đã Giác Ngộ chỉ đạo. Nếu không như vậy, thời tu cho có chứng tu, hay tu để cầu phước. Vì sao?
Vì đang mê tu bằng cách nào cũng vẫn trong thời mê, dù học thuộc tất cả các Kinh Phật hay nghiên cứu tất cả lời Phật cũng nằm trong bị biết, vẫn trong đường mê.
Mà nơi nhân thế xuân đem mấy lần.” Ở cõi Tiên ngồi đánh cờ, uống rượu chưa tàn một buổi tiệc mà ở thế gian đã mất 3 đến 4 năm. Một năm ở cõi Tiên phải là một trăm năm ở thế gian!
Chư Thần ở cõi Trời hay dùng bùa chú, tính tình thương người nhưng rất nóng tính. Không khí ở cõi Trời cũng mát dịu như ở trong phòng điều hòa không khí. Cũng có vị như ở thế gian như Đình, Miếu, gốc cây cổ thụ, núi, sông. Hết kiếp vẫn sinh tử luân hồi. Do vậy mà sự tu hành đúng con đường Giác Ngộ thật khó khăn vô kể! Vì khó như vậy mà bậc tu hành phải có đường lối hay pháp môn do Bậc Thiện Tri thức đã Giác Ngộ chỉ đạo. Nếu không như vậy, thời tu cho có chứng tu, hay tu để cầu phước. Vì sao?
Vì đang mê tu bằng cách nào cũng vẫn trong thời mê, dù học thuộc tất cả các Kinh Phật hay nghiên cứu tất cả lời Phật cũng nằm trong bị biết, vẫn trong đường mê.
Đã mê chưa một lần tỉnh giác
Còn làm khôn dẫn dắt người mê
Đường mê thêm nổi nhọc về
Gây thành cái thứ bệnh mê lư truyền.
Tỷ như kẻ vào được kho thuốc, chẳng thiếu thứ chi, mừng quá nên thứ gì muốn uống đều tự do dùng, lại chỉ bày cho kẻ khác cùng uống với mình. Kết quả cả hai không những chẳng hết bệnh mà lại càng thêm bệnh.
Tỷ như kẻ đang lạc đường không tìm ra được lối thoát, thì dù có dìu dắt kẻ khác theo cùng với mình cũng bị lạc đường thôi, cuối cùng cũng chỉ là bạn không hơn kém. Đã mê chưa một lần tĩnh giác, còn làm khôn dẩn dắt người mê, đường mê thêm nổi nhọc về, gây thành cái thứ bệnh mê lưu truyền. Cũng chính thời hạ kiếp này sự tu hành có vô số pháp môn, không pháp môn nào đưa con người đến chân giác mà Đức Di Lạc Vương Tôn Phật phải Hạ Lai chỉnh trang lại lối tu hành có đường lối, pháp môn rõ ràng minh bạch cốt đưa chúng sinh thoát sinh, tử, lão, khổ.
Mỗi chân tử có mỗi Nghiệp Căn. Bậc chỉ đạo liền dùng Đại Phương Tiện chỉ bày. Còn phần bậc tín tâm, tu cần sửa đổi tánh tình để tạo cho được Thiện Căn cùng phải chịu tất cả các thử thách khi THUẬN lúc NGHỊCH của vạn pháp đặng hiểu biết. Nếu Tỏ Pháp liền được Tỏ Tâm. Tỏ tâm là Ngộ Pháp. Đó là điểm chính yếu của đường tu mà Đức Quảng An đã vạch ra, sao cho không còn lạc lối tu nữa. Ngài thành lập pháp môn ĐẠO PHÁP ý nghĩa chính là Long Hoa, y theo Pháp Tạng Như Lai còn gọi Là Phật Thừa Duy Nhất, dụng “Phật Pháp Bất Ly Thế Gian Giác” để diễn Đại Phương Tiện.
Tất cả các bậc tín tâm từ Bồ Tát, Hộ Pháp Bồ Tát, A La Hán, Tôn Giả, Hộ Pháp, Chúng Sanh Hộ Pháp trước sau đều theo con đường Tri Kiến Giải Thoát. Những Bậc này Đức Quảng An đều nung đúc trước tiên vào tu phải Kiên Dũng cho tỏ Như Lai Tạng còn gọi là Như Tạng, làm cho con đường tu hành không dừng trụ. Sau mới dạy cho tu căn bản GIỚI ĐỊNH TUỆ để được dung thông mà quyết định thành tựu Giác Ngộ, Đại Ngộ, Liễu Ngộ. Bậc cao thành tựu Vô Thượng Đẳng Chánh Giác.
Tỷ như kẻ vào được kho thuốc, chẳng thiếu thứ chi, mừng quá nên thứ gì muốn uống đều tự do dùng, lại chỉ bày cho kẻ khác cùng uống với mình. Kết quả cả hai không những chẳng hết bệnh mà lại càng thêm bệnh.
Tỷ như kẻ đang lạc đường không tìm ra được lối thoát, thì dù có dìu dắt kẻ khác theo cùng với mình cũng bị lạc đường thôi, cuối cùng cũng chỉ là bạn không hơn kém. Đã mê chưa một lần tĩnh giác, còn làm khôn dẩn dắt người mê, đường mê thêm nổi nhọc về, gây thành cái thứ bệnh mê lưu truyền. Cũng chính thời hạ kiếp này sự tu hành có vô số pháp môn, không pháp môn nào đưa con người đến chân giác mà Đức Di Lạc Vương Tôn Phật phải Hạ Lai chỉnh trang lại lối tu hành có đường lối, pháp môn rõ ràng minh bạch cốt đưa chúng sinh thoát sinh, tử, lão, khổ.
Mỗi chân tử có mỗi Nghiệp Căn. Bậc chỉ đạo liền dùng Đại Phương Tiện chỉ bày. Còn phần bậc tín tâm, tu cần sửa đổi tánh tình để tạo cho được Thiện Căn cùng phải chịu tất cả các thử thách khi THUẬN lúc NGHỊCH của vạn pháp đặng hiểu biết. Nếu Tỏ Pháp liền được Tỏ Tâm. Tỏ tâm là Ngộ Pháp. Đó là điểm chính yếu của đường tu mà Đức Quảng An đã vạch ra, sao cho không còn lạc lối tu nữa. Ngài thành lập pháp môn ĐẠO PHÁP ý nghĩa chính là Long Hoa, y theo Pháp Tạng Như Lai còn gọi Là Phật Thừa Duy Nhất, dụng “Phật Pháp Bất Ly Thế Gian Giác” để diễn Đại Phương Tiện.
Tất cả các bậc tín tâm từ Bồ Tát, Hộ Pháp Bồ Tát, A La Hán, Tôn Giả, Hộ Pháp, Chúng Sanh Hộ Pháp trước sau đều theo con đường Tri Kiến Giải Thoát. Những Bậc này Đức Quảng An đều nung đúc trước tiên vào tu phải Kiên Dũng cho tỏ Như Lai Tạng còn gọi là Như Tạng, làm cho con đường tu hành không dừng trụ. Sau mới dạy cho tu căn bản GIỚI ĐỊNH TUỆ để được dung thông mà quyết định thành tựu Giác Ngộ, Đại Ngộ, Liễu Ngộ. Bậc cao thành tựu Vô Thượng Đẳng Chánh Giác.
Phật Đạo duy nhất có một Tôn Chỉ Mục Đích như nhau. Phật
Đạo thừa kế Nhất Tôn liên hệ mật thiết không sai chạy, nên gọi Nhất Tôn Tối Thượng.
Dù cho vạn Phật ra đời trong vạn thời chỉ đạo chăng cũng vẫn có một Tôn Chỉ Mục
Đích nguyên vẹn trong ba thời Phật Nhất Tôn (thời Thượng Kiếp, thời Hiền Kiếp
và thời Hạ Kiếp) làm thế nào đưa tất cả đạt đến Tri Kiến Giải Thoát, còn nói về
thời Phật ra đời thì Ngài tùy theo thời Kiếp mà hoá độ.
Đặc biệt thời Hạ Lai, Đạo Pháp lập pháp Thiền Mật Tịnh để Tỏ Pháp tức là Tỏ Tâm. Với Tình Duy Nhất Đạo Pháp, Ngài quyết định bậc tín tâm phải TIN VÂNG KÍNH theo sự chỉ bày Của Bồ Tát. Vì sao? Vì thời Mạt Pháp học, nghiên cứu quá nhiều thành lý chướng. Nên phải Tin Vâng Kính để Lý Sự Không Chướng, tu đến chánh giác.
"Khi tôi trực giác nhớ tiền kiếp quá khứ là Di Lạc, chẳng lẽ KINH tôi viết ra, lại ghi là Di Lạc sao coi được? Tôi phải lấy tên thế gian mà tôi đã xuất gia."
Bậc tu hành muốn gặp Đức Di Lạc, phải biết pháp môn của Ngài là gì? Pháp môn của Đức Di Lạc là tu trong SẮC – THINH – HƯƠNG – VỊ – XÚC – PHÁP ở trong đời mà không nhiễm. Tu hành như vậy mới nhận định được chân lý của pháp môn Đức Di Lạc.
"Còn Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là Giáo Chủ khai đạo ở cõi Ta Bà Thế Giới này chẳng lẽ Hạ Lai này tôi xưng Giáo Chủ nữa để dành ngôi vị của Ngài sao được. Nên tôi chỉ dùng chức vụ tối cao của Đạo gọi là Di Lạc để tỏ lòng Tôn Kính Đức Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Còn nói về hai chữ LONG HOA, khi ra đời hành đạo tôi cũng không treo bảng dùng chữ Long Hoa coi sao được? Do đó tôi phải xin lập Xã Hội Khoa Học Phật Giáo Dục nhưng cũng có ý nhắc nhở chúng sinh ở thế giới Ta Bà này biết mà nghĩ lại là chính Di Lạc đã ra đời, lập lại Thượng Kiếp nên dưới hàng chữ Xã Hội Khoa Học Phật Giáo Dục, Do đó mà Đức Di Lạc bảo: Hạ lai này Tôi lập lại kỷ cương đường lối tu hành. Nếu chúng sinh theo con đường Ngài đã lập ra, ắt là dân của nước Phật, bằng không dù nghiên cứu, học cao cũng quanh quẩn lai sinh ở thế gian hay vào cảnh giới khác mà thôi!
Nếu tin Phật tu Phật qua Kinh điển, qua hình thờ bằng gỗ, bằng xi măng, bằng giấy in hình Phật, khi lâm chung nếu thiện căn được sinh lại vùng có chùa, gặp lại Kinh Phật, tượng cốt rồi vào tu, cứ thế mà luân hồi.
Gặp Bồ Tát tin tu sẽ đi theo y tôn, y chỉ do đó mà Ngài đã chỉ đạo rõ ràng. Mất tin Tăng Chủ hoặc Tổ thừa hành kế tiếp, thời lạc loài sanh tử. Vì sao? - Vì tu chưa biết lúc nào là đúng sai mà không tin bậc đã tỏ biết con đường sanh tử ắt phải lạc nên phải tin. Bằng không, tu thế nào cũng được, hoặc y kinh vẫn không thoát sinh được.
Bằng mất Tin vẫn bị chìm đắm trong Lục Đạo để diễn hành.
Đa phần bậc tu Tin theo Đạo Phật nhiều vô số kể nhưng TIN bậc Thiện Tri Thức đã giác ngộ thật khó khăn, phải chờ ngày nào nhận được chân lý mới TIN. Bậc tu tin Thiện Tri Thức đã khó, còn nghe lời Tin Vâng thi hành để ngộ càng khó hơn. Đã không Vâng, không thực hiện được theo sự chỉ bày của Bậc đã chánh giác sẽ không tháo gỡ được lục đạo gọi là chìm đắm trong Thiên – Nhân– A Tu La – Ngạ Quỷ – Súc Sanh – Địa Ngục.
- Đứng về Thiên Giới: Bậc tu hành định tưởng thường mong muốn gọi là dục tưởng.
- Đứng về Nhân Giới: Thường-Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín, khác ý liền chấp, lại không ưa, thường trụ.
- Đứng về A Tu La Giới: Thường nóng tính, dễ phát sinh nên thường hoại lại thường chấp.
- Đứng về Súc Sanh Giới: Thường phát sinh, kết nạp để hóa sinh.
- Đứng về Ngạ Quỷ: Tham lam, tranh giành
- Đứng về Địa Ngục: Chủ Thủ, chỉ biết bạo lực, không nghe ai, độc tôn dễ bị diệt vong.
Chẳng kính: Phải bị xa lìa Tánh Trí xa lìa ba đời Phật. Kẻ không kính bậc Thiện Tri Thức không tin Phật, Pháp, Tăng không có thiện căn, tánh độc, hung bạo phải bị xa lìa ba đời Phật. Hiện tại không tin kính Phật thì quá khứ, vị lai cũng vậy. Lúc chết họ sống trong địa ngục, không nghe được lời nói đạo đức.
Tin vâng kính trọn là:thuận cũng tin mà nghịch cũng tin. Không chấp, không chướng khi bậc Thiện Tri Thức dụng nghịch hành, cốt cho bậc tín tâm tỏ thông Như Lai Tạng. Đó là công đức Như Lai, cúng dường Như Lai nếu trọn tin, có nghĩa tận độ hết chúng sanh tánh của mình sẽ được Như Lai thọ ký thành Phật.
Đương thời Hạ Lai Mạt Pháp này, Đức Quảng An hóa thân Đức Di Lạc dạy tín chúng cần phải cùng đồng nguyện, cũng đồng hành, cùng đồng sự với chư vị Bồ Tát – Phật đã đi trước để đồng chung hưởng chân lý mà Tri Kiến Giải Thoát. Nếu không cùng chung nguyện, không cùng đồng hành, không đồng sự, tu theo ý muốn sẽ không bao giờ đạt được kết quả vì lạc lối mà Đức Ngài mới Hạ Lai chỉnh trang lại.
Đoạn Kinh sau nay Đức Di Lạc đã ghi:
“... Sơn thần – Thủy thần – Hỏa thần – Phong thần… đều hộ trì giúp đỡ hữu hiệu”
Sơn thần: Thần sống ở núi, chân núi, gốc cây.
Thủy thần: Có cảnh giới ở nơi nước sống nơi nước như ao, hồ, sông, biển.
Hỏa thần: Có cảnh giới sống trong lửa, tắm lửa, ăn lửa.
Phong thần: Có cảnh giới ở nơi gió, sống trong gió.
Còn vô số cảnh giới nữa dưới mắt Thiền Sư thấy thật rõ không sao kể hết được.
Thế mới biết bậc tu tin vâng kính Chư Phật, thật tối cần để đạt kết quả hữu hiệu. Còn chúng sinh tin bậc trên, kính bậc Thánh, Thần, Trời, Phật đều có lợi thật. Còn nữa, thương yêu người dưới tướng của mình cũng được Chư vị tu quá khứ quý, tán thán, khâm phục.
Nói và hành phải đi song hành chân thật, chớ không phải giả dối chỉ nói lời hoa mỹ mà hành động lại diệt thần Thánh, Trời, Phật chỉ vào địa ngục vô gián quá ư khổ hãi!
Có lần Đức Quảng An Ngài khai thị: "Có địa ngục hung bạo đến mức giam một chỗ khoảng 5000 người ác là chuyện thường. Họ luôn kêu la, rên siết không sao kể hết được."
"Đồng mời: Mười hai Dược Sư Dạ Xoa Quỷ Vương Đại Tướng của Đức Đông Độ Dược Sư hộ trì giúp đỡ hữu hiệu."
Mười hai vị này đã ở quanh Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc để giúp đỡ kẻ Ác căn hồi tâm quay về Thiện.
Đức Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là tổ của Thiền Tôn đã cho 12 Đại Tướng hộ trì Chánh Pháp trong thời Đức Di Lạc hiện thể khai đạo và đang còn hiện tiền giúp đỡ các chư vị Bồ Tát xây dựng chánh pháp rất tích cực, hữu hiệu. Kẻ lấy cái tưởng còn vọng bình phẩm đều không đúng. Trực giác mới thật nghe thấy biết đúng.
“Vậy tùy theo mỗi chân tử mà hộ trì giúp đỡ Chánh Báo và Thọ Báo phân minh hiện hành đúng đắn hữu hiệu.”
Đến đây Ngài đã minh định sẵn, sự tu hành tùy theo mức độ Tin Vâng Kính của mỗi Chân tử đối với con đường đạo mà Ngài đã dụng Vô Lượng Công Năng, Công Đức vạch ra, sẽ được giúp đỡ. Nếu Chân tử cầu Tri Kiến Phật đến Phật Tri Kiến gọi là con đường giác ngộ đến giác ngộ rốt ráo sẽ được Chánh Báo. Còn Chân tử tu cầu phước báo cũng được thọ báo nhân thiên. Đối với chúng sinh tu hành ngoài con đường Chư Phật, tự ý theo cái muốn cũng được thọ báo phân minh thật bình đẳng lớp lớp.
Đặc biệt thời Hạ Lai, Đạo Pháp lập pháp Thiền Mật Tịnh để Tỏ Pháp tức là Tỏ Tâm. Với Tình Duy Nhất Đạo Pháp, Ngài quyết định bậc tín tâm phải TIN VÂNG KÍNH theo sự chỉ bày Của Bồ Tát. Vì sao? Vì thời Mạt Pháp học, nghiên cứu quá nhiều thành lý chướng. Nên phải Tin Vâng Kính để Lý Sự Không Chướng, tu đến chánh giác.
"Khi tôi trực giác nhớ tiền kiếp quá khứ là Di Lạc, chẳng lẽ KINH tôi viết ra, lại ghi là Di Lạc sao coi được? Tôi phải lấy tên thế gian mà tôi đã xuất gia."
Bậc tu hành muốn gặp Đức Di Lạc, phải biết pháp môn của Ngài là gì? Pháp môn của Đức Di Lạc là tu trong SẮC – THINH – HƯƠNG – VỊ – XÚC – PHÁP ở trong đời mà không nhiễm. Tu hành như vậy mới nhận định được chân lý của pháp môn Đức Di Lạc.
"Còn Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là Giáo Chủ khai đạo ở cõi Ta Bà Thế Giới này chẳng lẽ Hạ Lai này tôi xưng Giáo Chủ nữa để dành ngôi vị của Ngài sao được. Nên tôi chỉ dùng chức vụ tối cao của Đạo gọi là Di Lạc để tỏ lòng Tôn Kính Đức Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Còn nói về hai chữ LONG HOA, khi ra đời hành đạo tôi cũng không treo bảng dùng chữ Long Hoa coi sao được? Do đó tôi phải xin lập Xã Hội Khoa Học Phật Giáo Dục nhưng cũng có ý nhắc nhở chúng sinh ở thế giới Ta Bà này biết mà nghĩ lại là chính Di Lạc đã ra đời, lập lại Thượng Kiếp nên dưới hàng chữ Xã Hội Khoa Học Phật Giáo Dục, Do đó mà Đức Di Lạc bảo: Hạ lai này Tôi lập lại kỷ cương đường lối tu hành. Nếu chúng sinh theo con đường Ngài đã lập ra, ắt là dân của nước Phật, bằng không dù nghiên cứu, học cao cũng quanh quẩn lai sinh ở thế gian hay vào cảnh giới khác mà thôi!
Nếu tin Phật tu Phật qua Kinh điển, qua hình thờ bằng gỗ, bằng xi măng, bằng giấy in hình Phật, khi lâm chung nếu thiện căn được sinh lại vùng có chùa, gặp lại Kinh Phật, tượng cốt rồi vào tu, cứ thế mà luân hồi.
Gặp Bồ Tát tin tu sẽ đi theo y tôn, y chỉ do đó mà Ngài đã chỉ đạo rõ ràng. Mất tin Tăng Chủ hoặc Tổ thừa hành kế tiếp, thời lạc loài sanh tử. Vì sao? - Vì tu chưa biết lúc nào là đúng sai mà không tin bậc đã tỏ biết con đường sanh tử ắt phải lạc nên phải tin. Bằng không, tu thế nào cũng được, hoặc y kinh vẫn không thoát sinh được.
Bằng mất Tin vẫn bị chìm đắm trong Lục Đạo để diễn hành.
Đa phần bậc tu Tin theo Đạo Phật nhiều vô số kể nhưng TIN bậc Thiện Tri Thức đã giác ngộ thật khó khăn, phải chờ ngày nào nhận được chân lý mới TIN. Bậc tu tin Thiện Tri Thức đã khó, còn nghe lời Tin Vâng thi hành để ngộ càng khó hơn. Đã không Vâng, không thực hiện được theo sự chỉ bày của Bậc đã chánh giác sẽ không tháo gỡ được lục đạo gọi là chìm đắm trong Thiên – Nhân– A Tu La – Ngạ Quỷ – Súc Sanh – Địa Ngục.
- Đứng về Thiên Giới: Bậc tu hành định tưởng thường mong muốn gọi là dục tưởng.
- Đứng về Nhân Giới: Thường-Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín, khác ý liền chấp, lại không ưa, thường trụ.
- Đứng về A Tu La Giới: Thường nóng tính, dễ phát sinh nên thường hoại lại thường chấp.
- Đứng về Súc Sanh Giới: Thường phát sinh, kết nạp để hóa sinh.
- Đứng về Ngạ Quỷ: Tham lam, tranh giành
- Đứng về Địa Ngục: Chủ Thủ, chỉ biết bạo lực, không nghe ai, độc tôn dễ bị diệt vong.
Chẳng kính: Phải bị xa lìa Tánh Trí xa lìa ba đời Phật. Kẻ không kính bậc Thiện Tri Thức không tin Phật, Pháp, Tăng không có thiện căn, tánh độc, hung bạo phải bị xa lìa ba đời Phật. Hiện tại không tin kính Phật thì quá khứ, vị lai cũng vậy. Lúc chết họ sống trong địa ngục, không nghe được lời nói đạo đức.
Tin vâng kính trọn là:thuận cũng tin mà nghịch cũng tin. Không chấp, không chướng khi bậc Thiện Tri Thức dụng nghịch hành, cốt cho bậc tín tâm tỏ thông Như Lai Tạng. Đó là công đức Như Lai, cúng dường Như Lai nếu trọn tin, có nghĩa tận độ hết chúng sanh tánh của mình sẽ được Như Lai thọ ký thành Phật.
Đương thời Hạ Lai Mạt Pháp này, Đức Quảng An hóa thân Đức Di Lạc dạy tín chúng cần phải cùng đồng nguyện, cũng đồng hành, cùng đồng sự với chư vị Bồ Tát – Phật đã đi trước để đồng chung hưởng chân lý mà Tri Kiến Giải Thoát. Nếu không cùng chung nguyện, không cùng đồng hành, không đồng sự, tu theo ý muốn sẽ không bao giờ đạt được kết quả vì lạc lối mà Đức Ngài mới Hạ Lai chỉnh trang lại.
Đoạn Kinh sau nay Đức Di Lạc đã ghi:
“... Sơn thần – Thủy thần – Hỏa thần – Phong thần… đều hộ trì giúp đỡ hữu hiệu”
Sơn thần: Thần sống ở núi, chân núi, gốc cây.
Thủy thần: Có cảnh giới ở nơi nước sống nơi nước như ao, hồ, sông, biển.
Hỏa thần: Có cảnh giới sống trong lửa, tắm lửa, ăn lửa.
Phong thần: Có cảnh giới ở nơi gió, sống trong gió.
Còn vô số cảnh giới nữa dưới mắt Thiền Sư thấy thật rõ không sao kể hết được.
Thế mới biết bậc tu tin vâng kính Chư Phật, thật tối cần để đạt kết quả hữu hiệu. Còn chúng sinh tin bậc trên, kính bậc Thánh, Thần, Trời, Phật đều có lợi thật. Còn nữa, thương yêu người dưới tướng của mình cũng được Chư vị tu quá khứ quý, tán thán, khâm phục.
Nói và hành phải đi song hành chân thật, chớ không phải giả dối chỉ nói lời hoa mỹ mà hành động lại diệt thần Thánh, Trời, Phật chỉ vào địa ngục vô gián quá ư khổ hãi!
Có lần Đức Quảng An Ngài khai thị: "Có địa ngục hung bạo đến mức giam một chỗ khoảng 5000 người ác là chuyện thường. Họ luôn kêu la, rên siết không sao kể hết được."
"Đồng mời: Mười hai Dược Sư Dạ Xoa Quỷ Vương Đại Tướng của Đức Đông Độ Dược Sư hộ trì giúp đỡ hữu hiệu."
Mười hai vị này đã ở quanh Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc để giúp đỡ kẻ Ác căn hồi tâm quay về Thiện.
Đức Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là tổ của Thiền Tôn đã cho 12 Đại Tướng hộ trì Chánh Pháp trong thời Đức Di Lạc hiện thể khai đạo và đang còn hiện tiền giúp đỡ các chư vị Bồ Tát xây dựng chánh pháp rất tích cực, hữu hiệu. Kẻ lấy cái tưởng còn vọng bình phẩm đều không đúng. Trực giác mới thật nghe thấy biết đúng.
“Vậy tùy theo mỗi chân tử mà hộ trì giúp đỡ Chánh Báo và Thọ Báo phân minh hiện hành đúng đắn hữu hiệu.”
Đến đây Ngài đã minh định sẵn, sự tu hành tùy theo mức độ Tin Vâng Kính của mỗi Chân tử đối với con đường đạo mà Ngài đã dụng Vô Lượng Công Năng, Công Đức vạch ra, sẽ được giúp đỡ. Nếu Chân tử cầu Tri Kiến Phật đến Phật Tri Kiến gọi là con đường giác ngộ đến giác ngộ rốt ráo sẽ được Chánh Báo. Còn Chân tử tu cầu phước báo cũng được thọ báo nhân thiên. Đối với chúng sinh tu hành ngoài con đường Chư Phật, tự ý theo cái muốn cũng được thọ báo phân minh thật bình đẳng lớp lớp.
“Hồi Phật gần nhập Niết Bàn có di chúc với Tôn giả A
Nan rằng: Sau khi ta đi rồi, đến đời mạt pháp các môn đệ của ta bỏ các giáo
pháp, cứ tập theo cái thuyết không chánh đáng, chẳng chịu tu giới, tu định, tu
huệ, lại nhóm nhau những đồ hung đảng ác, thấy ai có giữ được giới hạnh thì sỉ
nhục chê bai. Vì cớ ấy nên
các vị Thiên Long buồn sầu mà xa lìa, còn các vị Đại Thần và Trưởng Giả thì
không sanh lòng tin kính Tam Bảo, làm cho Chánh Pháp muốn diệt.
Từ đó về sau đám tỳ kheo ấy tạo ác càng ngày càng lắm, rồi nhờ có những người tỳ kheo khác biết giữ gìn sự thanh tịnh tu hành, lại đem Giáo Pháp của Như Lai mà diễn nói cho loài hữu tình nghe, làm cho cả thảy đều được phần lợi ích. Khi ấy lại có các vị Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng giả, Cư sĩ và những Thiện Nam – Tín Nữ đều sanh lòng thương tiếc Chánh Pháp của Phật, thờ phượng nơi Tam Bảo cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen, hết lòng hết sức ra hộ trì cho đặng trùng hưng. Đó là các vị Bồ Tát lấy cái bổn nguyện rất to lớn mà sanh ra đời ấy đặng giữ gìn Phật Pháp và làm ích lợi cho chúng sanh như vậy”.
Do như vậy mà Đức Quảng An biết thời Mạt Pháp này khai đạo cho chúng sinh cầu Tri Kiến Giải Thoát họ phải Tin Vâng Kính bậc chỉ đạo mới tận độ cho họ có kết quả. Tỳ kheo thời Mạt Pháp, Đức Di Lạc cho hóa thân làm cư sĩ để đồng độ, dụng đời để chỉ bày tu tập nên được thanh tịnh hiện tại.
Thời Đức Bổn Sư, một hôm Tôn Giả A Nan ngồi Thiền thấy con voi to lớn, hùng vĩ đang đứng bỗng nhiên rũ mình ngã lăn ra và có vô số con giòi ở trong thân tuôn ra làm tan rã thân xác nó. Một lát sau, con voi lại rùng mình đứng dậy thì tất cả các con giòi rơi xuống và biến mất, con voi trở lại to lớn, hùng vĩ như cũ. Tôn Giả A Nan giật mình thưa với Đức Bổn Sư về câu chuyện trên. Ngài đã dạy rằng: Con voi ngã lăn ra có vô số giòi tuôn ra là ý chỉ sau này thời Mạt Pháp Tăng Ni xuất gia, lớp con của Ta không tu tự tánh nên Chánh Pháp bị tồi phá trở thành Mạt Pháp. Sau con voi rùng mình đứng lên một cách hùng vĩ tất cả giòi biến mất ý chỉ sau này người cư sĩ đứng lên xây dựng lại Chánh Pháp.
Từ đó về sau đám tỳ kheo ấy tạo ác càng ngày càng lắm, rồi nhờ có những người tỳ kheo khác biết giữ gìn sự thanh tịnh tu hành, lại đem Giáo Pháp của Như Lai mà diễn nói cho loài hữu tình nghe, làm cho cả thảy đều được phần lợi ích. Khi ấy lại có các vị Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng giả, Cư sĩ và những Thiện Nam – Tín Nữ đều sanh lòng thương tiếc Chánh Pháp của Phật, thờ phượng nơi Tam Bảo cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen, hết lòng hết sức ra hộ trì cho đặng trùng hưng. Đó là các vị Bồ Tát lấy cái bổn nguyện rất to lớn mà sanh ra đời ấy đặng giữ gìn Phật Pháp và làm ích lợi cho chúng sanh như vậy”.
Do như vậy mà Đức Quảng An biết thời Mạt Pháp này khai đạo cho chúng sinh cầu Tri Kiến Giải Thoát họ phải Tin Vâng Kính bậc chỉ đạo mới tận độ cho họ có kết quả. Tỳ kheo thời Mạt Pháp, Đức Di Lạc cho hóa thân làm cư sĩ để đồng độ, dụng đời để chỉ bày tu tập nên được thanh tịnh hiện tại.
Thời Đức Bổn Sư, một hôm Tôn Giả A Nan ngồi Thiền thấy con voi to lớn, hùng vĩ đang đứng bỗng nhiên rũ mình ngã lăn ra và có vô số con giòi ở trong thân tuôn ra làm tan rã thân xác nó. Một lát sau, con voi lại rùng mình đứng dậy thì tất cả các con giòi rơi xuống và biến mất, con voi trở lại to lớn, hùng vĩ như cũ. Tôn Giả A Nan giật mình thưa với Đức Bổn Sư về câu chuyện trên. Ngài đã dạy rằng: Con voi ngã lăn ra có vô số giòi tuôn ra là ý chỉ sau này thời Mạt Pháp Tăng Ni xuất gia, lớp con của Ta không tu tự tánh nên Chánh Pháp bị tồi phá trở thành Mạt Pháp. Sau con voi rùng mình đứng lên một cách hùng vĩ tất cả giòi biến mất ý chỉ sau này người cư sĩ đứng lên xây dựng lại Chánh Pháp.
●Bậc cả đời
tìm chân lý thì một đời tìm chân lý.
●Bậc lượm lặt
chân lý thì một đời lượm lặt chân lý, nếu suy nghĩ để tìm chân lý mà chưa nhận
được thì một đời cũng chỉ suy nghĩ thôi chẳng nhận được.
●Duy chỉ có đức
tin THIỆN TRI THỨC mà biết thôi.
Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vậy, khi Ngài Bát Đại Niết Bàn các vị Tôn Giả đều tự hào, nên không ông nào đến với Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả. Chỉ có Tôn Giả A Nan được Ngài sắp Tổ thứ hai mới gần Tôn Giả Ca Diếp mà thôi.
Thời này cũng quan niệm tôi và họ đều là chân tử của Đức Ngài nên dễ gì họ trực giác tỏ hết vô minh lầm lẫn. Thực ra khi một vị đã được Đức Di Lạc Vương Tôn Phật ban hành Hịch Bồ Tát thi hành Ma Ha Tát thì bậc này đã được nhập thể vũ trụ, đã được Tương Thông Phật Lực khó nghĩ bàn. Vị này được đầy đủ lực cùng công năng công đức khai thị cho tất cả Tứ loài cùng Nhân, Thiên, Tiên, Thần, Thánh, Hộ Pháp Bồ Tát như Thinh Văn, Duyên Giác, A La Hán, Bích Chi Phật trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới y như tôn chỉ của Hịch. Tất cả ai đi ngược lại, hoặc chê bai Bồ Tát đều bị bê trễ không những kiếp này mà còn vô số kiếp về sau.
Lãnh đạo tối cao của Đạo Pháp là Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Vương Tôn Phật. “Phật đạo thừa kế Thế Tôn nên có sự bảo tồn Tôn Thể Chứng Minh Tâm Ấn. Vì vậy trong thời Lục Tổ Huệ Năng, bậc tu hành dù có Đắc Pháp hoặc đoạt đến chân lý Tri Kiến Phật cũng phải về lễ bái thọ lãnh chứng minh mới đặng vào Chân Bổn Tôn Như Lai Tạng hoàn toàn Chánh Giác.”
Lời Ngài khai thị trong thời Hạ Lai Mạt Pháp này để nhắc nhở thời Lục Tổ dù bậc tu có đạt Tri Kiến Phật cũng phải có thừa kế chứng minh đến nay cũng theo y tôn, y chỉ rồi từ đó mới tu hành tiếp Phật Tri Kiến, từ đó mới Tương Thông Phật Lực theo mức độ tu chứng trong Cửu Phẩm Liên Hoa.
Cho nên những vị chân tử Ngài sau này có đắc pháp cũng phải được Bồ Tát thừa kế kiểm tra chứng minh mới được vào Bổn Tôn Như Lai Tạng, hoặc Tổ thừa kế thứ hai... nối tiếp mỗi thời chứng minh cho mới đặng. Chân tử Ngài, vị nào không theo đường Ngài đã vạch ra cho thời mạt pháp này đều là những vị tu ngang, tu dọc theo chí hướng quy định vẫn không được Tương Thông Phật Lực, chỉ được cái máy nói mà thôi.
“Trong thời gian qua tôi chứng minh giáo pháp là phẩm phương tiện cho tu hành, sau này có chân tử nào đắc đạo tôi chứng minh lại.”
Thời Hạ lai Mạt Pháp này, Ngài chứng kiến Chư Tổ, bậc hữu học xưng Phật dẫy đầy trong khi công năng công đức chưa đến mức đó.
“Quý thay lời dặn Thế Tôn
Nguyền xưa năm ấy vẫn còn nhớ đây
Thời Hạ pháp khó đắp xây
Chứng tu, tu chứng dẫy đầy khó phân."
Chư Tổ, bậc chân tu sau này có sở đắc một trong ba phẩm hoặc cả ba như Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bình Đẳng Tánh Trí, Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội Pháp Môn, những phẩm này giúp cho hành thâm pháp giới nhập Thánh, biết rõ bổn lai vạn pháp. Còn phải hạnh nguyện cho đến giác ngộ... đến liễu ngộ nữa mới trở thành vị A La Hán.
Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vậy, khi Ngài Bát Đại Niết Bàn các vị Tôn Giả đều tự hào, nên không ông nào đến với Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả. Chỉ có Tôn Giả A Nan được Ngài sắp Tổ thứ hai mới gần Tôn Giả Ca Diếp mà thôi.
Thời này cũng quan niệm tôi và họ đều là chân tử của Đức Ngài nên dễ gì họ trực giác tỏ hết vô minh lầm lẫn. Thực ra khi một vị đã được Đức Di Lạc Vương Tôn Phật ban hành Hịch Bồ Tát thi hành Ma Ha Tát thì bậc này đã được nhập thể vũ trụ, đã được Tương Thông Phật Lực khó nghĩ bàn. Vị này được đầy đủ lực cùng công năng công đức khai thị cho tất cả Tứ loài cùng Nhân, Thiên, Tiên, Thần, Thánh, Hộ Pháp Bồ Tát như Thinh Văn, Duyên Giác, A La Hán, Bích Chi Phật trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới y như tôn chỉ của Hịch. Tất cả ai đi ngược lại, hoặc chê bai Bồ Tát đều bị bê trễ không những kiếp này mà còn vô số kiếp về sau.
Lãnh đạo tối cao của Đạo Pháp là Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Vương Tôn Phật. “Phật đạo thừa kế Thế Tôn nên có sự bảo tồn Tôn Thể Chứng Minh Tâm Ấn. Vì vậy trong thời Lục Tổ Huệ Năng, bậc tu hành dù có Đắc Pháp hoặc đoạt đến chân lý Tri Kiến Phật cũng phải về lễ bái thọ lãnh chứng minh mới đặng vào Chân Bổn Tôn Như Lai Tạng hoàn toàn Chánh Giác.”
Lời Ngài khai thị trong thời Hạ Lai Mạt Pháp này để nhắc nhở thời Lục Tổ dù bậc tu có đạt Tri Kiến Phật cũng phải có thừa kế chứng minh đến nay cũng theo y tôn, y chỉ rồi từ đó mới tu hành tiếp Phật Tri Kiến, từ đó mới Tương Thông Phật Lực theo mức độ tu chứng trong Cửu Phẩm Liên Hoa.
Cho nên những vị chân tử Ngài sau này có đắc pháp cũng phải được Bồ Tát thừa kế kiểm tra chứng minh mới được vào Bổn Tôn Như Lai Tạng, hoặc Tổ thừa kế thứ hai... nối tiếp mỗi thời chứng minh cho mới đặng. Chân tử Ngài, vị nào không theo đường Ngài đã vạch ra cho thời mạt pháp này đều là những vị tu ngang, tu dọc theo chí hướng quy định vẫn không được Tương Thông Phật Lực, chỉ được cái máy nói mà thôi.
“Trong thời gian qua tôi chứng minh giáo pháp là phẩm phương tiện cho tu hành, sau này có chân tử nào đắc đạo tôi chứng minh lại.”
Thời Hạ lai Mạt Pháp này, Ngài chứng kiến Chư Tổ, bậc hữu học xưng Phật dẫy đầy trong khi công năng công đức chưa đến mức đó.
“Quý thay lời dặn Thế Tôn
Nguyền xưa năm ấy vẫn còn nhớ đây
Thời Hạ pháp khó đắp xây
Chứng tu, tu chứng dẫy đầy khó phân."
Chư Tổ, bậc chân tu sau này có sở đắc một trong ba phẩm hoặc cả ba như Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bình Đẳng Tánh Trí, Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội Pháp Môn, những phẩm này giúp cho hành thâm pháp giới nhập Thánh, biết rõ bổn lai vạn pháp. Còn phải hạnh nguyện cho đến giác ngộ... đến liễu ngộ nữa mới trở thành vị A La Hán.
Nam mô Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật.
Nam mô Giáo Chủ hiện tại Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Di Lạc Vương Tôn Phật.
Kính Bạch Thập Phương Chư Phật.
Hôm nay, ngày 19 tháng 06 năm Giáp Ngọ tức ngày 15 tháng 07 năm 2014, trong giờ phút tôn nghiêm với kim thân đầy kính ái, Ngài đang thị hiện chứng minh đại lễ. Với sự trang nghiêm của chư vị hữu hình cũng như vô hình của các cõi tề tựu với tất cả tâm thành kính tín thành, con đại diện tứ chúng thời Hạ Lai Mạt Pháp, kính trình lên Thập Phương Chư Phật con đường tu đến kết quả chân lý Tối Thượng Thừa hiếm có mà Đức Ngài đã tốn biết bao công ban cho chúng con.
Kính bạch Thập Phương Chư Phật:
Chúng sinh giai hữu Phật tánh vốn viên minh sẵn có từ vô thủy vô chung, nhưng do tập khí nhiễm tham, sân mới hiện si mê, mới có ma tánh phủ kín che Phật. Ma tánh liền có Ma Lực làm cho tứ loài đều bị trị khó vượt qua được pháp giới của ma lực. Trên thực tế, muốn thoát khỏi vòng đai pháp giới của ma lực phải thành khẩn tìm cầu Bậc Thiện Tri Thức là Phật hay Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ đạo để tự mình tạo công năng, công đức tương ứng. Tùy theo mức độ Tin Vâng Kính mà được cứu độ bình đẳng lớp lớp.
Bậc tu lịch trình thứ tự đầu tiên phải niệm niệm sửa tánh, trong đó nhẫn nhẫn rất cần thiết để xem xét kỹ vạn pháp, bá thiên vạn lần nhẫn mới đặng bình tĩnh quan sát vạn pháp không bị thiên lệch, biết nhận định lỗi lầm do mình gây ra hay do hành động cá nhân, cá tánh của mình tác tạo thành nghiệp không phải do ai khác, Bậc Thiện Tri thức khai thị nhưng phải chính mình trực giác được nghiệp thức di chuyển không ngừng do cảnh, chẳng vương theo cảnh, chẳng dựa theo tâm. Trực giác được như vậy gọi là bậc tu có trí tuệ căn bản.
Bậc biết nhẫn, chịu sự oán hại, yên nhận khổ, không còn đọng vọng thì dù có đối diện vạn pháp thuận hay nghịch vẫn nhẫn nại, an nhiên tùy thuận, chọn lựa phương thức hóa giải, vận chuyển vạn pháp tùy thời gian, không gian đến một lúc nào đầy đủ công năng, công đức liền Trực Giác đặng Trí Tuệ Cứu Cánh. Từ đó tiếp tục hành thâm pháp giới tiến đến trí tuệ Bát Nhã. Trí này chính là kiếm bảy báu chém bất cứ vật gì dù rắn chắc đến đâu cũng tan vỡ. Bậc đạt được trí tuệ bát nhã không còn tâm sanh cảnh, thấy biết rõ tham, sân hận sanh ra si mê. Đã si mê bị lầm a tăng kỳ kiếp.
Phải tự nguyện bá thiên vạn lần nhẫn nhục, nhẫn nại nữa, vận chuyển vạn pháp gì cũng đúng mà phát sinh trí tuệ bát nhã, thâm nhập được sâu đậm vạn pháp, lúc đó nhận được hành dụng Như Lai Tạng mới ra chân như, tỏ rõ sạch sẽ nhẫn nhục liền Thị Chứng Vô Sanh Nhẫn Nhục. Đến lúc thành tựu sung mãn nhẫn nhục nó chính là Vi Trần Phật còn gọi là Phật Giới Nhẫn.
Cho đến vào bố thí, hóa giải tỏ rõ được Tâm Bi liền thị chứng Vô Sanh Bi nó chính là Vi Trần Phật còn gọi là Phật Giới Bi. Cho đến trì giới, tinh tấn, trí tuệ, thiền định, hóa giải sạch sẽ liền thị chứng vô sanh trì giới, vô sanh tinh tấn, vô sanh trí tuệ, vô sanh thiền định.
Nó cũng chính là vi trần Phật còn gọi là Phật Giới Trí, Phật Giới Tinh Tấn, Phật Giới Tuệ, Phật Giới Thiền Định, thảy đều vi trần Phật. Từ hành động, lời nói cho đến tư tưởng đều lớp lớp thị hiện vi trần Phật, sát na Phật, cho đến vô lượng vô biên thảy đều thị chứng VÔ SANH lớp lớp.
Bậc tu khi hành thâm pháp giới được ai khen tặng liền như nhiên tỏ biết vui, khi gặp kẻ chửi mắng hoặc bị nhục liền như nhiên tỏ biết tái tê nhưng chẳng dính mắc oán hờn xâm chiếm toàn thân liền thị chứng VÔ SANH. Đó chính là Nhất Tâm đảnh lễ, liền trực giác tứ thời tự nguyện cung kính cúng dường Như Lai, chẳng còn ngã, sở hữu chi nơi thân mạng mới gọi là có thân mà không thân đặng Pháp Đảnh Như Lai, thấu đạt Trí Tuệ Bát Nhã, nhận chân được thật đúng các pháp vốn bình đẳng, thực hiện bình đẳng không ngăn ngại vạn pháp. Thị chứng tứ đại vốn vô sanh. Nó là thực tướng của chân như, xa lìa được sanh diệt.
Mỗi tánh đều hàm chứa nhiều phẩm chất cùng phẩm lượng thực tướng vô tướng, chúng bao vây diễn hóa. Tỏ rõ thực tướng hóa giải, không thủ cũng chẳng xả liền thấu đạt vô tướng, ngộ vô sanh.
Nương vào sanh, tỏ rõ sanh. Không sanh cũng chẳng diệt. Thị chứng vô sanh sanh.
Nương vào tử, tỏ rõ tử. Không cấu cũng chẳng ly. Thị chứng vô sanh tử.
Vậy vô sanh chẳng phải không sanh mà đương sanh tỏ thấu sạch sẽ liền thị chứng vô sanh. Trực giác: Giác niệm đó chính là niệm Bất Tử là chơn niệm cho đến cả cái niệm cũng không trong tất cả thời đều không chỗ đắm cũng chẳng chấp. Chơn Tâm hiện.
Nghiệp bao vây, diễn hóa ngăn chặn mỗi mỗi hạnh nguyện. Bậc có trí tuệ cứu cánh sáng soi, tỏ rõ hóa giải. Bậc chưa có trí tuệ cứu cánh liền củng cố nghiệp. Mỗi Nghiệp chính một tiểu ngã vũ trụ.
Tiểu ngã do ta lầm chấp mà thọ nhận nên làm chúng sanh. Nghiệp thấy nghiệp, chính nó thấy nó, nó ngăn che nghe thấy biết nơi ta rất tinh vi, ai cũng phải lầm, tỏ rõ liền thị chứng vô sanh nghiệp.
Cho đến nương vào sắc, hóa giải tỏ rõ sắc liền thị chứng Vô Sanh Sắc. Đấy là giác niệm sắc. Vô sanh cũng không, liền thị chứng liễu vô sanh. Nương vào thinh, hương, vị, xúc, pháp hóa giải tỏ tường liền thị chứng vô sanh thinh, hương, vị, xúc, pháp, tức giác niệm thinh, hương, xúc, pháp.
Tỏ rõ mỗi tiểu ngã, trực giác mỗi giác niệm. Tỏ rõ vô số giác niệm chính trực giác vô số tiểu ngã, chính vô số vi trần, sát na ma ba tuần, mỗi mỗi tỏ rõ hóa giải liền lạc trơn liền vô sanh hành dụng hợp hóa. Đó chính Vi Trần Phật Sát Na Phật. Phật tánh, Ma tánh chỉ là một, chúng đeo sát nhau như hình với bóng. Khi mê lầm Phật tánh ẩn trong Ma tánh, khi trực giác được Ma tánh không còn chỗ dung chứa thì cũng chính nó, Phật tánh hiện khắp khắp.
Mỗi chúng sanh đều hàm chứa nơi nó cái mầm chủng tử thiện cùng ác, về phương diện trực giác được chẳng còn có thiện ác gì nữa cả. Trong pháp tuyệt đối, tất cả pháp ấy chẳng còn là tội lỗi nó chỉ trở thành tội lỗi trong những điều kiện đã được minh xét chưa trực giác. Bậc đã trực giác cần phải thâm nhập hàng vạn pháp giới cho sung mãn công năng công đức để cho nó phổ chiếu rực rỡ đích thực của nó.
Thị chứng lớp lớp liền Đại Ngộ. Liễu sanh Đại Ngộ liền thị chứng Liễu Ngộ. Liễu ngộ thị chứng bất tử trở về bổn nhiên, như nhiên. Như nhiên chính bổn lai chúng sinh. Chúng sinh như nhiên rất gần chư Phật. Thể của chư Phật, đâu đâu cũng viên minh thường còn, bất biến sẵn lớp lớp từ vô thủy vô chung.
Vỡ lẽ ra mới biết không có chúng sinh đâu có Phật, không có vô minh đâu có giác ngộ. Khi đầy đủ công năng công đức thể nhập chúng sinh, cận kề mật thiết thì Phật với chúng sinh đồng một thể nên khi mê lầm bị vô minh thì Phật và chúng sanh xa nhau muôn trùng do tuần.
Chính vì vô minh mà chúng sinh không biết Phật, chỉ Phật biết chúng sinh mà thôi. Đã vô sanh nên thị chứng Không Tướng mà Giác Tướng. Liễu vô sanh các pháp bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Liễu vô sanh thị chứng các pháp hiện đâu đâu cũng vi diệu đầy đủ sức đại từ đại bi.
Bổn lai của pháp vốn tự thể tuyệt đối, chính giao điểm này Tâm Chư Bồ Tát cung kính cúng dường chư Phật. Chính chỗ này Tâm Chư Phật mười phương ba đời thường trú, viên minh chẳng đổi dời, bất di bất dịch, vô thủy vô chung chẳng còn pháp nào cao hơn, thị chứng các pháp hiện đồng đẳng, đã đồng đẳng tâm liền vô thượng đẳng, pháp cũng vô thượng đẳng, trí cũng vô thượng đẳng. Chẳng còn tâm nào, pháp nào cao hơn. Bất khả tư nghì. Vì sao?
Vì nó vượt quá sự thuyết giảng, sự thực hành, sự tìm kiếm, suy nghĩ không thể lấy thí dụ thế gian mà diễn đạt đầy đủ được.
Pháp đồng đẳng thị chứng pháp Bát Nhã, tâm đồng đẳng thị chứng tâm bát nhã. Tâm này thoát khỏi tri thức, không còn dùng trí trong thân, không còn dùng thần thức suy nghĩ. Đó là chỗ tự chứng rất thâm sâu vi diệu như nhiên tự biết, hồn nhiên điều hành Như Trí gọi là chủ lực, nó cũng là Nhất Thiết Trí bước vào Bất Khả Tư Nghì.
Đó chính là con đường Như Lai Thừa hay Phật Thừa Tối Thượng. Con đường này không có lúc trước cũng chẳng có lúc sau vì nó nhịp nhàng viên dung theo nhịp chuyển vận của vũ trụ, cho nên không thể nói lúc trước ông ấy trông dễ mến, bây giờ ông ấy xấu quá không ưa. Vì Phật Thừa vốn nương vào hiện sinh tỏ rõ hiện sinh sạch sẽ hiện sinh nên tiên liệu đưa đón kín nhiệm theo vận chuyển Như Lai, giờ phút trước, sau chẳng dừng, nhịp nhàng nương tâm mình an nhiên hòa nhịp vào tâm vũ trụ. Tâm vũ trụ tức tâm Như Lai, nhờ Bình Đẳng Tánh Trí tỏ tường cùng hành dụng tinh vi mới thấu đạt liền lạc Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội Pháp Môn.
Chủ trì được thực vô, liễu sanh liền lạc, lúc bấy giờ tâm mới hòa đồng chung cùng giao cảm vũ trụ, không còn bị vũ trụ sanh.
Đã vô sanh, các pháp đâu còn sanh và diệt. Pháp vốn thường còn nhưng biến hình tướng dưới nhiều hình thức cho đến nỗi bậc Thinh Văn, Duyên Giác, A La Hán cũng chưa đủ công năng công đức thấy hết chỉ hàng Bồ Tát đã thị chứng pháp Vô Thượng Đẳng mới biết hồi hướng đầy đủ để chư Phật khai cho sau trực ngộ sâu mà thấu đạt.
Bậc tu chưa tỏ thường lầm lẫn khi thấy hình tướng của pháp mất hay thấy tướng pháp sanh, vội cho là pháp sanh diệt. Thật ra các pháp vốn tịch tịnh viên minh, bất sanh bất diệt.
Bậc tu bị mang danh giả ngã tướng tức thị danh bị lầm thọ nhiễm cái ta, khi đã có cái Ta, tức có Của Ta, nhận sai lầm các pháp cho là sanh diệt. Do chủng tử Ta liền sanh chủng tử phiền não của Ta, nó ngăn che Vô Thượng Giác.
Khi tu hành đến lúc tự biết được các pháp vốn không sanh cũng chẳng diệt liền nương vào pháp hóa giải tỏ rõ không còn lầm pháp, tận tường pháp được an vui lạ thường.
Đến giai đoạn tâm liền lạc, tỏ ngộ trước sau tứ thời các pháp vốn đồng đẳng, liền chu đáo trước sau mới sở đắc viên dung, điều hành được vạn pháp, chuyển pháp chướng ngại, ngăn đón to lớn phủ kín như núi tu di tan biến, pháp đã hồi Tâm. Gọi là chuyển núi Tu Di vào trong hạt cải mà chúng sinh trong thế giới đó chẳng hề hay biết.
Bậc tu thấu đạt tứ thời Tâm Vô Thượng Đẳng, không còn thời gian cùng không gian rời rạc, liền hóa thân lúc nào cũng có ba đời Phật.
- Hư không không tận hiện Phật quá khứ.
- Trong hư không không tận khởi tác dụng, hiện Phật Vị Lai.
- Nương vào hiện sanh, hóa giải thấu đạt hiện sanh, Phật hiện tại.
Lúc bấy giờ bậc này hiện mỗi ngôn ngữ, mỗi cử chỉ, mỗi tư tưởng ứng cùng hóa hiện đồng một đại từ lực cùng Tam Thế, được tương thông Phật lực. Thị chứng vô vô minh diệt, vô vô minh tận, tứ thời an lành thoải mái, mỗi một chuyển động đều tự phát ra vi diệu pháp, thực hiện được vạn hạnh cho đến lúc hoàn mỹ mới chu đáo Nhất Hạnh. Đại bi nguyện rất sâu này của Bồ Tát chẳng có thể lấy cái tình của chúng sinh mà đo lường được.
Từ đó mới rõ, bậc tu không tạo được Vô Thượng Trí đều nằm yên nơi thần thức vọng loạn để biết chưa vào được đúng mức chiều sâu. Thần thức là chỗ dựa của sanh tử. Chỉ khi nào đầy đủ sung mãn nơi công đức hữu lậu, trong đó hàm chứa vô biên đại công đức hi hữu mới như nhiên thị chứng Công Đức Vô Lậu.
Nơi đây các nghiệp lậu hết vĩnh viễn, chẳng còn theo duyên mà tăng, tánh được thanh tịnh, được tròn sáng đâu đâu cũng là chủng tử vô lậu. Có đạt đến vô lậu mới trực ngộ vô úy, nơi các pháp chướng ngại, các nghiệp sinh tử đều hết, viên dung, không còn có chỗ sợ, hết khổ gọi là chánh đẳng giác vô úy.
Từ đó bát nhã hiển hiện, chính huệ không sanh, không phân biệt. Huệ không pháp, không phân biệt. Thực tướng bát nhã chúng sinh vốn đủ, chỉ do vô minh che không nhận được vô tướng bát nhã. Do đó chẳng được tam muội.
Vào được trí bát nhã, bậc tu mới từng lúc trong tứ thời hạnh nguyện được đầy đủ Thập Nhị Địa. Chưa thị chứng sạch sẽ Nhứt Thiết Chủng Trí bậc tu chẳng thể nào thực hiện được giác dụng, do đó chẳng bao giờ có vô thượng đẳng trí, dù cho bậc tu cố gia công tứ thời thiền tọa, học, nghiên cứu thiên kinh vạn quyển vẫn phải còn bị ở vị trí thần thức biết Phật pháp, khó thoát sinh nổi lý trí.
Bậc thực hiện được tận biết: “Như Lai vô biên thề nguyện sự” bậc này càng gần gũi chúng sinh, càng thấu đạt chúng sinh mà chúng sinh chẳng hề hay biết. Mỗi niệm niệm đều cảm ứng tương thông, hòa hợp đầy đủ Thập Nhị Địa, hoàn tất cửu Phẩm Liên Hoa vào Tam Muội mới tương thông Mười Phương Phật lực.
Kính bạch Đức Ngài:
Chúng con nguyện nương vào vạn pháp hiện sinh khéo thuyết, khéo dụng để tận tường hiện sinh đặng thị chứng vô sanh, chung cùng con đường bất tử với chư Phật mười phương ba đời.
Chân Phật Tử Thanh Như Đại diện tứ chúng kính dâng.
Trước ngày Đại Lễ, Ngài đã biết tôi sở đắc Vô Thượng Đẳng Chánh Giác. Trong giờ hành lễ Ngài khai thị tôi nghe như vầy: “Này Thanh Như, thiên thu vạn kiếp Chân Tử đã đi lầm lạc, nay Chân Tử gặp Ta, Ta đã thương mến độ cho Chân Tử, vậy Chân Tử hãy thương mến độ chúng sinh cũng như Ta đã từng thương mến độ cho Chân Tử.
Nếu có chúng sinh nào cầu Tri Kiến Giải Thoát, Chân Tử hãy dạy cho họ tri kiến giải thoát. Nếu có chúng sinh nào cầu giác ngộ rốt ráo Chân Tử hãy dạy cho họ giác ngộ rốt ráo. Này Chân Tử Thanh Như, Chân Tử có nghe chăng, Chân Tử có nhớ chăng?”
Tôi đảnh lễ Ngài thọ lãnh lời thọ ký, tứ chúng trong đại lễ cùng đồng đảnh lễ theo bảy lạy. Sau đó Ngài khai thị có một số chân tử trong Đạo Tràng Vạn An cùng nghe:
“Từ nay Tôi đã có một Bồ Tát thừa kế nối truyền Chánh pháp, Tôi hết lo sau này trên đường hạnh nguyện độ sinh nếu các Chân Tử gặp Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Chân nên tôn kính, còn những bậc xưng hô Vô Thượng Đẳng, Vô Thượng Sư, Chân Tử hãy thân cận hòa đồng xem có phải vô thượng đẳng, vô thượng sư của chư vị này giống Chân Như mà tôi đã dày công đúc ra Chân Tử không? Nếu chẳng đúng tâm ấn chân truyền thì Chân Tử phải biết Vô Thượng Đẳng, Vô Thượng Sư, học thuyết, giả thuyết chớ không phải chân thật.”
Thời Hạ Lai vũ trụ xuất sanh chỉ có một Chân Tôn chứ khó lòng có hai mà nếu có, ắt đã từng gặp Phật cùng thời rồi. Thời khoa học này có vị tu theo nghiên cứu Kinh, học kinh tự cho vô thượng đẳng vô thượng sư lại bảo không có các cõi, không có địa ngục, chỉ có thế gian. Sự kiện này khiến cho vô số chúng sinh sống thác loạn chẳng sợ ngày mai nhân qủa ra sao. Đức Long Hoa Giáo Chủ ghi chép trả lời như sau:
“Từ Chư Thiên mà hết phước, phải sa địa ngục bị hình phạt gông cùm đói khát. Từ một lời nói tổn làm đoạn duyên Phật phải chịu nơi A Tỳ Địa Ngục hàng trăm kiếp, chừng nào kẻ kia phát Bồ Đề Tâm Nguyện thì chừng đó lời nói tổn kia mới đặng thoát sanh. Thật biết như thế nên thường khuyên nhiều người hãy phát tâm tu nguyện cốt giải Địa Ngục những kẻ phạm ngôn.”
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật.
Nam mô Giáo Chủ hiện tại Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Di Lạc Vương Tôn Phật.
Kính Bạch Thập Phương Chư Phật.
Hôm nay, ngày 19 tháng 06 năm Giáp Ngọ tức ngày 15 tháng 07 năm 2014, trong giờ phút tôn nghiêm với kim thân đầy kính ái, Ngài đang thị hiện chứng minh đại lễ. Với sự trang nghiêm của chư vị hữu hình cũng như vô hình của các cõi tề tựu với tất cả tâm thành kính tín thành, con đại diện tứ chúng thời Hạ Lai Mạt Pháp, kính trình lên Thập Phương Chư Phật con đường tu đến kết quả chân lý Tối Thượng Thừa hiếm có mà Đức Ngài đã tốn biết bao công ban cho chúng con.
Kính bạch Thập Phương Chư Phật:
Chúng sinh giai hữu Phật tánh vốn viên minh sẵn có từ vô thủy vô chung, nhưng do tập khí nhiễm tham, sân mới hiện si mê, mới có ma tánh phủ kín che Phật. Ma tánh liền có Ma Lực làm cho tứ loài đều bị trị khó vượt qua được pháp giới của ma lực. Trên thực tế, muốn thoát khỏi vòng đai pháp giới của ma lực phải thành khẩn tìm cầu Bậc Thiện Tri Thức là Phật hay Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ đạo để tự mình tạo công năng, công đức tương ứng. Tùy theo mức độ Tin Vâng Kính mà được cứu độ bình đẳng lớp lớp.
Bậc tu lịch trình thứ tự đầu tiên phải niệm niệm sửa tánh, trong đó nhẫn nhẫn rất cần thiết để xem xét kỹ vạn pháp, bá thiên vạn lần nhẫn mới đặng bình tĩnh quan sát vạn pháp không bị thiên lệch, biết nhận định lỗi lầm do mình gây ra hay do hành động cá nhân, cá tánh của mình tác tạo thành nghiệp không phải do ai khác, Bậc Thiện Tri thức khai thị nhưng phải chính mình trực giác được nghiệp thức di chuyển không ngừng do cảnh, chẳng vương theo cảnh, chẳng dựa theo tâm. Trực giác được như vậy gọi là bậc tu có trí tuệ căn bản.
Bậc biết nhẫn, chịu sự oán hại, yên nhận khổ, không còn đọng vọng thì dù có đối diện vạn pháp thuận hay nghịch vẫn nhẫn nại, an nhiên tùy thuận, chọn lựa phương thức hóa giải, vận chuyển vạn pháp tùy thời gian, không gian đến một lúc nào đầy đủ công năng, công đức liền Trực Giác đặng Trí Tuệ Cứu Cánh. Từ đó tiếp tục hành thâm pháp giới tiến đến trí tuệ Bát Nhã. Trí này chính là kiếm bảy báu chém bất cứ vật gì dù rắn chắc đến đâu cũng tan vỡ. Bậc đạt được trí tuệ bát nhã không còn tâm sanh cảnh, thấy biết rõ tham, sân hận sanh ra si mê. Đã si mê bị lầm a tăng kỳ kiếp.
Phải tự nguyện bá thiên vạn lần nhẫn nhục, nhẫn nại nữa, vận chuyển vạn pháp gì cũng đúng mà phát sinh trí tuệ bát nhã, thâm nhập được sâu đậm vạn pháp, lúc đó nhận được hành dụng Như Lai Tạng mới ra chân như, tỏ rõ sạch sẽ nhẫn nhục liền Thị Chứng Vô Sanh Nhẫn Nhục. Đến lúc thành tựu sung mãn nhẫn nhục nó chính là Vi Trần Phật còn gọi là Phật Giới Nhẫn.
Cho đến vào bố thí, hóa giải tỏ rõ được Tâm Bi liền thị chứng Vô Sanh Bi nó chính là Vi Trần Phật còn gọi là Phật Giới Bi. Cho đến trì giới, tinh tấn, trí tuệ, thiền định, hóa giải sạch sẽ liền thị chứng vô sanh trì giới, vô sanh tinh tấn, vô sanh trí tuệ, vô sanh thiền định.
Nó cũng chính là vi trần Phật còn gọi là Phật Giới Trí, Phật Giới Tinh Tấn, Phật Giới Tuệ, Phật Giới Thiền Định, thảy đều vi trần Phật. Từ hành động, lời nói cho đến tư tưởng đều lớp lớp thị hiện vi trần Phật, sát na Phật, cho đến vô lượng vô biên thảy đều thị chứng VÔ SANH lớp lớp.
Bậc tu khi hành thâm pháp giới được ai khen tặng liền như nhiên tỏ biết vui, khi gặp kẻ chửi mắng hoặc bị nhục liền như nhiên tỏ biết tái tê nhưng chẳng dính mắc oán hờn xâm chiếm toàn thân liền thị chứng VÔ SANH. Đó chính là Nhất Tâm đảnh lễ, liền trực giác tứ thời tự nguyện cung kính cúng dường Như Lai, chẳng còn ngã, sở hữu chi nơi thân mạng mới gọi là có thân mà không thân đặng Pháp Đảnh Như Lai, thấu đạt Trí Tuệ Bát Nhã, nhận chân được thật đúng các pháp vốn bình đẳng, thực hiện bình đẳng không ngăn ngại vạn pháp. Thị chứng tứ đại vốn vô sanh. Nó là thực tướng của chân như, xa lìa được sanh diệt.
Mỗi tánh đều hàm chứa nhiều phẩm chất cùng phẩm lượng thực tướng vô tướng, chúng bao vây diễn hóa. Tỏ rõ thực tướng hóa giải, không thủ cũng chẳng xả liền thấu đạt vô tướng, ngộ vô sanh.
Nương vào sanh, tỏ rõ sanh. Không sanh cũng chẳng diệt. Thị chứng vô sanh sanh.
Nương vào tử, tỏ rõ tử. Không cấu cũng chẳng ly. Thị chứng vô sanh tử.
Vậy vô sanh chẳng phải không sanh mà đương sanh tỏ thấu sạch sẽ liền thị chứng vô sanh. Trực giác: Giác niệm đó chính là niệm Bất Tử là chơn niệm cho đến cả cái niệm cũng không trong tất cả thời đều không chỗ đắm cũng chẳng chấp. Chơn Tâm hiện.
Nghiệp bao vây, diễn hóa ngăn chặn mỗi mỗi hạnh nguyện. Bậc có trí tuệ cứu cánh sáng soi, tỏ rõ hóa giải. Bậc chưa có trí tuệ cứu cánh liền củng cố nghiệp. Mỗi Nghiệp chính một tiểu ngã vũ trụ.
Tiểu ngã do ta lầm chấp mà thọ nhận nên làm chúng sanh. Nghiệp thấy nghiệp, chính nó thấy nó, nó ngăn che nghe thấy biết nơi ta rất tinh vi, ai cũng phải lầm, tỏ rõ liền thị chứng vô sanh nghiệp.
Cho đến nương vào sắc, hóa giải tỏ rõ sắc liền thị chứng Vô Sanh Sắc. Đấy là giác niệm sắc. Vô sanh cũng không, liền thị chứng liễu vô sanh. Nương vào thinh, hương, vị, xúc, pháp hóa giải tỏ tường liền thị chứng vô sanh thinh, hương, vị, xúc, pháp, tức giác niệm thinh, hương, xúc, pháp.
Tỏ rõ mỗi tiểu ngã, trực giác mỗi giác niệm. Tỏ rõ vô số giác niệm chính trực giác vô số tiểu ngã, chính vô số vi trần, sát na ma ba tuần, mỗi mỗi tỏ rõ hóa giải liền lạc trơn liền vô sanh hành dụng hợp hóa. Đó chính Vi Trần Phật Sát Na Phật. Phật tánh, Ma tánh chỉ là một, chúng đeo sát nhau như hình với bóng. Khi mê lầm Phật tánh ẩn trong Ma tánh, khi trực giác được Ma tánh không còn chỗ dung chứa thì cũng chính nó, Phật tánh hiện khắp khắp.
Mỗi chúng sanh đều hàm chứa nơi nó cái mầm chủng tử thiện cùng ác, về phương diện trực giác được chẳng còn có thiện ác gì nữa cả. Trong pháp tuyệt đối, tất cả pháp ấy chẳng còn là tội lỗi nó chỉ trở thành tội lỗi trong những điều kiện đã được minh xét chưa trực giác. Bậc đã trực giác cần phải thâm nhập hàng vạn pháp giới cho sung mãn công năng công đức để cho nó phổ chiếu rực rỡ đích thực của nó.
Thị chứng lớp lớp liền Đại Ngộ. Liễu sanh Đại Ngộ liền thị chứng Liễu Ngộ. Liễu ngộ thị chứng bất tử trở về bổn nhiên, như nhiên. Như nhiên chính bổn lai chúng sinh. Chúng sinh như nhiên rất gần chư Phật. Thể của chư Phật, đâu đâu cũng viên minh thường còn, bất biến sẵn lớp lớp từ vô thủy vô chung.
Vỡ lẽ ra mới biết không có chúng sinh đâu có Phật, không có vô minh đâu có giác ngộ. Khi đầy đủ công năng công đức thể nhập chúng sinh, cận kề mật thiết thì Phật với chúng sinh đồng một thể nên khi mê lầm bị vô minh thì Phật và chúng sanh xa nhau muôn trùng do tuần.
Chính vì vô minh mà chúng sinh không biết Phật, chỉ Phật biết chúng sinh mà thôi. Đã vô sanh nên thị chứng Không Tướng mà Giác Tướng. Liễu vô sanh các pháp bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Liễu vô sanh thị chứng các pháp hiện đâu đâu cũng vi diệu đầy đủ sức đại từ đại bi.
Bổn lai của pháp vốn tự thể tuyệt đối, chính giao điểm này Tâm Chư Bồ Tát cung kính cúng dường chư Phật. Chính chỗ này Tâm Chư Phật mười phương ba đời thường trú, viên minh chẳng đổi dời, bất di bất dịch, vô thủy vô chung chẳng còn pháp nào cao hơn, thị chứng các pháp hiện đồng đẳng, đã đồng đẳng tâm liền vô thượng đẳng, pháp cũng vô thượng đẳng, trí cũng vô thượng đẳng. Chẳng còn tâm nào, pháp nào cao hơn. Bất khả tư nghì. Vì sao?
Vì nó vượt quá sự thuyết giảng, sự thực hành, sự tìm kiếm, suy nghĩ không thể lấy thí dụ thế gian mà diễn đạt đầy đủ được.
Pháp đồng đẳng thị chứng pháp Bát Nhã, tâm đồng đẳng thị chứng tâm bát nhã. Tâm này thoát khỏi tri thức, không còn dùng trí trong thân, không còn dùng thần thức suy nghĩ. Đó là chỗ tự chứng rất thâm sâu vi diệu như nhiên tự biết, hồn nhiên điều hành Như Trí gọi là chủ lực, nó cũng là Nhất Thiết Trí bước vào Bất Khả Tư Nghì.
Đó chính là con đường Như Lai Thừa hay Phật Thừa Tối Thượng. Con đường này không có lúc trước cũng chẳng có lúc sau vì nó nhịp nhàng viên dung theo nhịp chuyển vận của vũ trụ, cho nên không thể nói lúc trước ông ấy trông dễ mến, bây giờ ông ấy xấu quá không ưa. Vì Phật Thừa vốn nương vào hiện sinh tỏ rõ hiện sinh sạch sẽ hiện sinh nên tiên liệu đưa đón kín nhiệm theo vận chuyển Như Lai, giờ phút trước, sau chẳng dừng, nhịp nhàng nương tâm mình an nhiên hòa nhịp vào tâm vũ trụ. Tâm vũ trụ tức tâm Như Lai, nhờ Bình Đẳng Tánh Trí tỏ tường cùng hành dụng tinh vi mới thấu đạt liền lạc Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội Pháp Môn.
Chủ trì được thực vô, liễu sanh liền lạc, lúc bấy giờ tâm mới hòa đồng chung cùng giao cảm vũ trụ, không còn bị vũ trụ sanh.
Đã vô sanh, các pháp đâu còn sanh và diệt. Pháp vốn thường còn nhưng biến hình tướng dưới nhiều hình thức cho đến nỗi bậc Thinh Văn, Duyên Giác, A La Hán cũng chưa đủ công năng công đức thấy hết chỉ hàng Bồ Tát đã thị chứng pháp Vô Thượng Đẳng mới biết hồi hướng đầy đủ để chư Phật khai cho sau trực ngộ sâu mà thấu đạt.
Bậc tu chưa tỏ thường lầm lẫn khi thấy hình tướng của pháp mất hay thấy tướng pháp sanh, vội cho là pháp sanh diệt. Thật ra các pháp vốn tịch tịnh viên minh, bất sanh bất diệt.
Bậc tu bị mang danh giả ngã tướng tức thị danh bị lầm thọ nhiễm cái ta, khi đã có cái Ta, tức có Của Ta, nhận sai lầm các pháp cho là sanh diệt. Do chủng tử Ta liền sanh chủng tử phiền não của Ta, nó ngăn che Vô Thượng Giác.
Khi tu hành đến lúc tự biết được các pháp vốn không sanh cũng chẳng diệt liền nương vào pháp hóa giải tỏ rõ không còn lầm pháp, tận tường pháp được an vui lạ thường.
Đến giai đoạn tâm liền lạc, tỏ ngộ trước sau tứ thời các pháp vốn đồng đẳng, liền chu đáo trước sau mới sở đắc viên dung, điều hành được vạn pháp, chuyển pháp chướng ngại, ngăn đón to lớn phủ kín như núi tu di tan biến, pháp đã hồi Tâm. Gọi là chuyển núi Tu Di vào trong hạt cải mà chúng sinh trong thế giới đó chẳng hề hay biết.
Bậc tu thấu đạt tứ thời Tâm Vô Thượng Đẳng, không còn thời gian cùng không gian rời rạc, liền hóa thân lúc nào cũng có ba đời Phật.
- Hư không không tận hiện Phật quá khứ.
- Trong hư không không tận khởi tác dụng, hiện Phật Vị Lai.
- Nương vào hiện sanh, hóa giải thấu đạt hiện sanh, Phật hiện tại.
Lúc bấy giờ bậc này hiện mỗi ngôn ngữ, mỗi cử chỉ, mỗi tư tưởng ứng cùng hóa hiện đồng một đại từ lực cùng Tam Thế, được tương thông Phật lực. Thị chứng vô vô minh diệt, vô vô minh tận, tứ thời an lành thoải mái, mỗi một chuyển động đều tự phát ra vi diệu pháp, thực hiện được vạn hạnh cho đến lúc hoàn mỹ mới chu đáo Nhất Hạnh. Đại bi nguyện rất sâu này của Bồ Tát chẳng có thể lấy cái tình của chúng sinh mà đo lường được.
Từ đó mới rõ, bậc tu không tạo được Vô Thượng Trí đều nằm yên nơi thần thức vọng loạn để biết chưa vào được đúng mức chiều sâu. Thần thức là chỗ dựa của sanh tử. Chỉ khi nào đầy đủ sung mãn nơi công đức hữu lậu, trong đó hàm chứa vô biên đại công đức hi hữu mới như nhiên thị chứng Công Đức Vô Lậu.
Nơi đây các nghiệp lậu hết vĩnh viễn, chẳng còn theo duyên mà tăng, tánh được thanh tịnh, được tròn sáng đâu đâu cũng là chủng tử vô lậu. Có đạt đến vô lậu mới trực ngộ vô úy, nơi các pháp chướng ngại, các nghiệp sinh tử đều hết, viên dung, không còn có chỗ sợ, hết khổ gọi là chánh đẳng giác vô úy.
Từ đó bát nhã hiển hiện, chính huệ không sanh, không phân biệt. Huệ không pháp, không phân biệt. Thực tướng bát nhã chúng sinh vốn đủ, chỉ do vô minh che không nhận được vô tướng bát nhã. Do đó chẳng được tam muội.
Vào được trí bát nhã, bậc tu mới từng lúc trong tứ thời hạnh nguyện được đầy đủ Thập Nhị Địa. Chưa thị chứng sạch sẽ Nhứt Thiết Chủng Trí bậc tu chẳng thể nào thực hiện được giác dụng, do đó chẳng bao giờ có vô thượng đẳng trí, dù cho bậc tu cố gia công tứ thời thiền tọa, học, nghiên cứu thiên kinh vạn quyển vẫn phải còn bị ở vị trí thần thức biết Phật pháp, khó thoát sinh nổi lý trí.
Bậc thực hiện được tận biết: “Như Lai vô biên thề nguyện sự” bậc này càng gần gũi chúng sinh, càng thấu đạt chúng sinh mà chúng sinh chẳng hề hay biết. Mỗi niệm niệm đều cảm ứng tương thông, hòa hợp đầy đủ Thập Nhị Địa, hoàn tất cửu Phẩm Liên Hoa vào Tam Muội mới tương thông Mười Phương Phật lực.
Kính bạch Đức Ngài:
Chúng con nguyện nương vào vạn pháp hiện sinh khéo thuyết, khéo dụng để tận tường hiện sinh đặng thị chứng vô sanh, chung cùng con đường bất tử với chư Phật mười phương ba đời.
Chân Phật Tử Thanh Như Đại diện tứ chúng kính dâng.
Trước ngày Đại Lễ, Ngài đã biết tôi sở đắc Vô Thượng Đẳng Chánh Giác. Trong giờ hành lễ Ngài khai thị tôi nghe như vầy: “Này Thanh Như, thiên thu vạn kiếp Chân Tử đã đi lầm lạc, nay Chân Tử gặp Ta, Ta đã thương mến độ cho Chân Tử, vậy Chân Tử hãy thương mến độ chúng sinh cũng như Ta đã từng thương mến độ cho Chân Tử.
Nếu có chúng sinh nào cầu Tri Kiến Giải Thoát, Chân Tử hãy dạy cho họ tri kiến giải thoát. Nếu có chúng sinh nào cầu giác ngộ rốt ráo Chân Tử hãy dạy cho họ giác ngộ rốt ráo. Này Chân Tử Thanh Như, Chân Tử có nghe chăng, Chân Tử có nhớ chăng?”
Tôi đảnh lễ Ngài thọ lãnh lời thọ ký, tứ chúng trong đại lễ cùng đồng đảnh lễ theo bảy lạy. Sau đó Ngài khai thị có một số chân tử trong Đạo Tràng Vạn An cùng nghe:
“Từ nay Tôi đã có một Bồ Tát thừa kế nối truyền Chánh pháp, Tôi hết lo sau này trên đường hạnh nguyện độ sinh nếu các Chân Tử gặp Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Chân nên tôn kính, còn những bậc xưng hô Vô Thượng Đẳng, Vô Thượng Sư, Chân Tử hãy thân cận hòa đồng xem có phải vô thượng đẳng, vô thượng sư của chư vị này giống Chân Như mà tôi đã dày công đúc ra Chân Tử không? Nếu chẳng đúng tâm ấn chân truyền thì Chân Tử phải biết Vô Thượng Đẳng, Vô Thượng Sư, học thuyết, giả thuyết chớ không phải chân thật.”
Thời Hạ Lai vũ trụ xuất sanh chỉ có một Chân Tôn chứ khó lòng có hai mà nếu có, ắt đã từng gặp Phật cùng thời rồi. Thời khoa học này có vị tu theo nghiên cứu Kinh, học kinh tự cho vô thượng đẳng vô thượng sư lại bảo không có các cõi, không có địa ngục, chỉ có thế gian. Sự kiện này khiến cho vô số chúng sinh sống thác loạn chẳng sợ ngày mai nhân qủa ra sao. Đức Long Hoa Giáo Chủ ghi chép trả lời như sau:
“Từ Chư Thiên mà hết phước, phải sa địa ngục bị hình phạt gông cùm đói khát. Từ một lời nói tổn làm đoạn duyên Phật phải chịu nơi A Tỳ Địa Ngục hàng trăm kiếp, chừng nào kẻ kia phát Bồ Đề Tâm Nguyện thì chừng đó lời nói tổn kia mới đặng thoát sanh. Thật biết như thế nên thường khuyên nhiều người hãy phát tâm tu nguyện cốt giải Địa Ngục những kẻ phạm ngôn.”
Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Vương Tôn Phật khóc cho
Tăng Ni.
“Bậc tu hành cho mình là phải thì bậc ấy chỉ đứng một
phía của đạo thôi. Bằng bậc tu hành tìm kiếm được tất cả đều là phải. Nó do một
nơi nào mà có phải thì bậc ấy mới mong đến Phật.”
thời Hạ Lai Mạt Pháp này, các vị có học trò theo tu khá đông. Các
vị đều được gọi là hòa thượng, thiền sư, nhưng cũng lại tiếc thay không nhận được
một câu kinh của Đức Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc Tôn Phật trong thời khai đạo ở thế
giới Ta Bà này.
“Các bậc tu hành nên thận trọng lúc đang tu, khi thuyết pháp rất hay in tuồng Thánh Tăng hoặc Tiên, Thần, Thánh ý nhưng ngược lại chính bản thân nơi mình chưa hiểu đặng lời thuyết minh trên hay chưa đặng quả vị như thế để tương xứng chớ nên thọ ngã. Phật dạy nên nương vào công đức Như Lai mà thuyết pháp.
Chính nơi tự giác nói thảy đều là lời Phật ngữ nói, bằng chẳng dùng lời tự giác nói tức lời ma thuyết tưởng vọng nói. Đoạn này rất cần cho bậc tu hành lưu ý.”
Qua những sự việc trên Ngài than: Tăng Ni bây giờ chăm học kinh, nghiên cứu kinh, gặp pháp gì nghịch ý liền chướng. Chẳng lẽ nhà bác học là bậc giác ngộ sao? Rồi Ngài ngồi khóc.
“Sau này Tăng Ni có đến, Chân Tử nói Tôi chờ họ đã quá lâu.”
“Các bậc tu hành nên thận trọng lúc đang tu, khi thuyết pháp rất hay in tuồng Thánh Tăng hoặc Tiên, Thần, Thánh ý nhưng ngược lại chính bản thân nơi mình chưa hiểu đặng lời thuyết minh trên hay chưa đặng quả vị như thế để tương xứng chớ nên thọ ngã. Phật dạy nên nương vào công đức Như Lai mà thuyết pháp.
Chính nơi tự giác nói thảy đều là lời Phật ngữ nói, bằng chẳng dùng lời tự giác nói tức lời ma thuyết tưởng vọng nói. Đoạn này rất cần cho bậc tu hành lưu ý.”
Qua những sự việc trên Ngài than: Tăng Ni bây giờ chăm học kinh, nghiên cứu kinh, gặp pháp gì nghịch ý liền chướng. Chẳng lẽ nhà bác học là bậc giác ngộ sao? Rồi Ngài ngồi khóc.
“Sau này Tăng Ni có đến, Chân Tử nói Tôi chờ họ đã quá lâu.”
Đức Di Lạc quyết
định giúp các chân tử tín tâm cầu đạo, phải thi hành ba điều cần thiết để đạt mục
đích Tri Kiến Giải Thoát:
Đạo đức + Giáo
Lý + Tọa Thiền = Tri Kiến Giải Thoát
Bậc tu cần tăng trưởng điều hòa sẽ đến Tri Kiến Giải Thoát.
Bậc tu cần tăng trưởng điều hòa sẽ đến Tri Kiến Giải Thoát.
Hỷ Xả là Đạo Đức
Muốn đoạt đến
Thánh Trí sự Nghe, Thấy, Biết được viên thông, làm đúng như lời PHật dạy, Thì bậc
ấy sẽ bước vào nơi Thánh Trí mới nhận đặng Phật Tánh Chân Tâm.
Bằng phàm phu
tự Ngã, tự kiêu, tự cho mình là đúng đắn chỉ phê, nghi kỵ không lãnh được Giáo
Ngôn thì dù tu đến vạn kiếp còn vòng trong Lục Đạo biến diễn không ngừng.
Trước tiên bậc tín tâm làm phẩm công đức hữu
lậu: Cúng dường như mua sắm lễ vật, hương đăng hoa quả, lễ bái dâng hương, cúng
dường chiêm ngưỡng. Công đức này tạo Phước Báo Nhân Thiên. Khoảng 100 kiếp cúng
dường, chiêm ngưỡng mới đủ chuyển đường tu sang giai đoạn hai, nhưng chưa nghe
được giáo lý.
Đến giai đoạn hai bậc tín tâm mới phát tâm cúng dường như xây chùa, lập tháp cho Chư Tăng tu tập, mình cũng tu hành, lễ bái trai đàn, cung kính lập thiện căn, làm phước thiện, cầu Tam Thế chứng minh. Công đức cúng dường này vẫn phải trên 100 kiếp, cũng chưa thích nghe giáo lý.
Đến giai đoạn ba, bậc tín tâm vẫn dùng phẩm công đức cúng dường Tam Thế, vẫn phải trên 100 kiếp. Như vậy bậc tín tâm phải tu 300 kiếp mới sung mãn Công Đức Hữu Lậu mà bước sang công đức Vô Lậu. Giai đoạn công đức hữu lậu có thể kéo dài hơn nữa nếu bậc tu bê trễ, tánh tình bủn xỉn, keo kiệt, tâm không rộng mở, tu cho có tu.
Công đức Hữu lậu chưa sung mãn, công đức vô lậu không bao giờ có kết quả. Công đức hữu lậu sung mãn như nhiên chuyển đường tu đến công đức vô lậu được vững vàng. Được Chư Thiên, Long Thần Hộ Pháp, Địa Thần giúp đỡ, dẫn dắt cho gặp Chư Bồ Tát, Chư Tôn Giả, Chư Hộ Pháp để tu cầu Tri Kiến Giải Thoát.
Do vậy, nhiều bậc tu không thích nghe giáo lý trên con đường giải thoát là vì chưa đủ công đức cần có để tu lên lớp, họ chỉ thích tụng kinh, ăn chay, chiêm ngưỡng tướng Phật, nếu có nghe giáo lý thì buồn ngủ, uể oải, có việc cản trở không cho nghe. Nghe bậc giác lại khó hơn.
Tỷ như một người xây một căn nhà, trước tiên việc phải làm là cái móng nhà phải vững chắc. Càng lên cao tầng chừng nào sức nặng càng lớn, móng nền nhà phải vững chắc đến mức tương xứng mới giữ cho căn nhà bền lâu vững chắc. Nếu móng nhà không tương xứng, nhà sẽ bị đổ. Bậc tu cầu tri kiến, tri kiến giải thoát, giác ngộ rốt ráo cũng tạo công đức hữu lậu sung mãn hiện kiếp mới thọ lãnh công đức vô lậu và tùy từng lớp lớp bậc tu mà đạo đức mỏng, thấp, dày, cao, để thọ lãnh Bảo Pháp ở bậc Thiện Tri Thức rất là bình đẳng.
Tỷ như trời mưa, nếu có người đem cái ly hứng nước đầy ly, nếu cứ hứng nước tiếp, nước sẽ tràn ra đất. Có hứng mãi cũng vô ích. Nếu có người đem cái chén, cái tô, cái lu... nó cũng đầy từng cái. Nếu hứng nước nữa, nó sẽ tràn ra ngoài. Bậc Thiện Tri Thức rất biết, rất tường tận Bình Đẳng Tánh Trí nên tùy chân tử mà ban cho lớp lớp. Nó phải vậy. Đạo đức Chư Phật đã tạo được trong vô lượng vô biên.
Tạo công đức nếu có ai chê, trách móc cần hỷ xả mới có đạo đức. Nếu tạo công đức mà không hỷ xả chỉ lãnh phước thiện được thọ báo sung sướng là cùng...
Hỷ Xả Là Đạo Đức
Qua ba giai đoạn trên, bậc tu đã tín tâm thù thắng lập Bồ Tát Hạnh như: Bố Thí – Trì Giới – Tinh Tấn – Nhẫn Nhục – Trí Tuệ – Thiền Định gọi là Lục Ba La. Lại dùng Bi – Chí – Dũng, Giới – Định – Tuệ để tu Tín Hạnh Nguyện. Sự tu hành Lý Sự đều nằm trong phẩm công đức, Đạo Hạnh cúng dường Ba La Mật Đa. Bậc tu phải nguyện vượt mọi trở lực cản ngăn gọi là Bồ Tát Nguyện. Đến lúc sở đắc Chân Không mới có Áo Giáp Bền để tu vào con đường Hành Thâm Pháp Giới, cố thâm nhập mà đoạt đến Bát Nhã Trí.
Đến Bát Nhã Trí như nhiên công đức hữu lậu trở thành công đức cúng dường vô lậu. Tức cúng dường Như Lai, thành tựu sung mãn Quốc Độ Bồ Tát.
Đến giai đoạn hai bậc tín tâm mới phát tâm cúng dường như xây chùa, lập tháp cho Chư Tăng tu tập, mình cũng tu hành, lễ bái trai đàn, cung kính lập thiện căn, làm phước thiện, cầu Tam Thế chứng minh. Công đức cúng dường này vẫn phải trên 100 kiếp, cũng chưa thích nghe giáo lý.
Đến giai đoạn ba, bậc tín tâm vẫn dùng phẩm công đức cúng dường Tam Thế, vẫn phải trên 100 kiếp. Như vậy bậc tín tâm phải tu 300 kiếp mới sung mãn Công Đức Hữu Lậu mà bước sang công đức Vô Lậu. Giai đoạn công đức hữu lậu có thể kéo dài hơn nữa nếu bậc tu bê trễ, tánh tình bủn xỉn, keo kiệt, tâm không rộng mở, tu cho có tu.
Công đức Hữu lậu chưa sung mãn, công đức vô lậu không bao giờ có kết quả. Công đức hữu lậu sung mãn như nhiên chuyển đường tu đến công đức vô lậu được vững vàng. Được Chư Thiên, Long Thần Hộ Pháp, Địa Thần giúp đỡ, dẫn dắt cho gặp Chư Bồ Tát, Chư Tôn Giả, Chư Hộ Pháp để tu cầu Tri Kiến Giải Thoát.
Do vậy, nhiều bậc tu không thích nghe giáo lý trên con đường giải thoát là vì chưa đủ công đức cần có để tu lên lớp, họ chỉ thích tụng kinh, ăn chay, chiêm ngưỡng tướng Phật, nếu có nghe giáo lý thì buồn ngủ, uể oải, có việc cản trở không cho nghe. Nghe bậc giác lại khó hơn.
Tỷ như một người xây một căn nhà, trước tiên việc phải làm là cái móng nhà phải vững chắc. Càng lên cao tầng chừng nào sức nặng càng lớn, móng nền nhà phải vững chắc đến mức tương xứng mới giữ cho căn nhà bền lâu vững chắc. Nếu móng nhà không tương xứng, nhà sẽ bị đổ. Bậc tu cầu tri kiến, tri kiến giải thoát, giác ngộ rốt ráo cũng tạo công đức hữu lậu sung mãn hiện kiếp mới thọ lãnh công đức vô lậu và tùy từng lớp lớp bậc tu mà đạo đức mỏng, thấp, dày, cao, để thọ lãnh Bảo Pháp ở bậc Thiện Tri Thức rất là bình đẳng.
Tỷ như trời mưa, nếu có người đem cái ly hứng nước đầy ly, nếu cứ hứng nước tiếp, nước sẽ tràn ra đất. Có hứng mãi cũng vô ích. Nếu có người đem cái chén, cái tô, cái lu... nó cũng đầy từng cái. Nếu hứng nước nữa, nó sẽ tràn ra ngoài. Bậc Thiện Tri Thức rất biết, rất tường tận Bình Đẳng Tánh Trí nên tùy chân tử mà ban cho lớp lớp. Nó phải vậy. Đạo đức Chư Phật đã tạo được trong vô lượng vô biên.
Tạo công đức nếu có ai chê, trách móc cần hỷ xả mới có đạo đức. Nếu tạo công đức mà không hỷ xả chỉ lãnh phước thiện được thọ báo sung sướng là cùng...
Hỷ Xả Là Đạo Đức
Qua ba giai đoạn trên, bậc tu đã tín tâm thù thắng lập Bồ Tát Hạnh như: Bố Thí – Trì Giới – Tinh Tấn – Nhẫn Nhục – Trí Tuệ – Thiền Định gọi là Lục Ba La. Lại dùng Bi – Chí – Dũng, Giới – Định – Tuệ để tu Tín Hạnh Nguyện. Sự tu hành Lý Sự đều nằm trong phẩm công đức, Đạo Hạnh cúng dường Ba La Mật Đa. Bậc tu phải nguyện vượt mọi trở lực cản ngăn gọi là Bồ Tát Nguyện. Đến lúc sở đắc Chân Không mới có Áo Giáp Bền để tu vào con đường Hành Thâm Pháp Giới, cố thâm nhập mà đoạt đến Bát Nhã Trí.
Đến Bát Nhã Trí như nhiên công đức hữu lậu trở thành công đức cúng dường vô lậu. Tức cúng dường Như Lai, thành tựu sung mãn Quốc Độ Bồ Tát.
-
“Nếu bậc tu
hành tạo được đạo đức, ít nghe hoặc không chịu nghe giáo lý, về sau chỉ được hưởng
Phước Báo Nhân Thiên chứ không đạt được Tri Kiến Giải Thoát.
- Nếu bậc tu tin Phật, thường khảo cứu kinh sách, thường nghe giáo lý, phá bờ ngăn chấp, tâm rỗng rang, được tự tại, vô ngại mà không cố tạo đạo đức, đương nhiên trí tuệ phát sinh tự ngã, sẽ sa vào đại cường hay bất tịnh rồi trở nên ngông nghênh.
- Nếu bậc tu tinh tấn làm tròn được đạo đức – giáo lý nhưng công phu thiền kém thì lúc thành tựu chưa tròn. Vì sao? Vì thiền kém nên không biết sự di chuyển Như Lai Tạng, không biết vũ trụ và con người vốn là một, nó nhịp nhàng giao cảm. Lại nghi ngờ các cảnh giới trong tam thiên như địa ngục, tiên, thần...lại cho là không có. Thiếu điều kiện như vậy cũng không bao giờ Tri Kiến Giải Thoát.
- Nếu bậc tu chưa hiểu biết gì về giáo lý chẳng tạo đạo đức, chỉ biết tọa thiền, quan niệm thiền là pháp môn giải thoát, thật nguy hại to lớn. Vì thiền nó vốn thấy thường diễn cảnh, thường biến hóa, nó tùy theo trí tuệ, theo nơi tham muốn mà diễn biến. Nếu bậc tu thiền chấp nhận liền trụ chấp dễ vấp phải cuồng tín. Khi chánh giác mới xác thật.
Bậc tu thiền có thể mắt thấy, tai nghe cõi trời, nhạc trời cùng các tiếng nói của tiên, thần, qủy quái giống như xem vô tuyến truyền hình. Đó là Tâm Sanh Cảnh không phải thật lại lầm xưng mình tu thành Phật–Thánh–Tiên hóa ra điên khùng, bậy bạ thật có hại vô kể vậy. Thời pháp thật quý cho tất cả.
Bậc tu thiền chủ yếu rất cần Thiện Tri Thức nếu không, như kẻ không biết lại lấy sạn đá đem nấu để mong thành cơm. Thật tai hại vô kể. Những chân tử tín thành, tùy công đức, tùy trí tuệ, Ngài đều dắt đi Tri Kiến Giải Thoát.
- Nếu bậc tu tin Phật, thường khảo cứu kinh sách, thường nghe giáo lý, phá bờ ngăn chấp, tâm rỗng rang, được tự tại, vô ngại mà không cố tạo đạo đức, đương nhiên trí tuệ phát sinh tự ngã, sẽ sa vào đại cường hay bất tịnh rồi trở nên ngông nghênh.
- Nếu bậc tu tinh tấn làm tròn được đạo đức – giáo lý nhưng công phu thiền kém thì lúc thành tựu chưa tròn. Vì sao? Vì thiền kém nên không biết sự di chuyển Như Lai Tạng, không biết vũ trụ và con người vốn là một, nó nhịp nhàng giao cảm. Lại nghi ngờ các cảnh giới trong tam thiên như địa ngục, tiên, thần...lại cho là không có. Thiếu điều kiện như vậy cũng không bao giờ Tri Kiến Giải Thoát.
- Nếu bậc tu chưa hiểu biết gì về giáo lý chẳng tạo đạo đức, chỉ biết tọa thiền, quan niệm thiền là pháp môn giải thoát, thật nguy hại to lớn. Vì thiền nó vốn thấy thường diễn cảnh, thường biến hóa, nó tùy theo trí tuệ, theo nơi tham muốn mà diễn biến. Nếu bậc tu thiền chấp nhận liền trụ chấp dễ vấp phải cuồng tín. Khi chánh giác mới xác thật.
Bậc tu thiền có thể mắt thấy, tai nghe cõi trời, nhạc trời cùng các tiếng nói của tiên, thần, qủy quái giống như xem vô tuyến truyền hình. Đó là Tâm Sanh Cảnh không phải thật lại lầm xưng mình tu thành Phật–Thánh–Tiên hóa ra điên khùng, bậy bạ thật có hại vô kể vậy. Thời pháp thật quý cho tất cả.
Bậc tu thiền chủ yếu rất cần Thiện Tri Thức nếu không, như kẻ không biết lại lấy sạn đá đem nấu để mong thành cơm. Thật tai hại vô kể. Những chân tử tín thành, tùy công đức, tùy trí tuệ, Ngài đều dắt đi Tri Kiến Giải Thoát.
-
Đức Di Lạc
luôn y tôn, y chỉ theo chư Phật mười phương ba đời khi hành đạo, chỉ dạy cho
các chân tử.
Thiền lại rất có lợi vô kể nếu bậc tu đã hiểu biết chân lý Phật pháp. Thiền giúp cho bậc tu trực giác vạn pháp, những hoàn cảnh dù rắc rối đến đâu trong cuộc sống phức tạp đối diện hàng ngày, nó giúp cho tâm trí hiểu biết tự giải quyết thích hợp thỏa đáng mà chúng sinh phải ngạc nhiên. Nó rất thích hợp trong gia đình, trong sở làm việc, trong trường học, trong các ngành, nghề...
Thiền giúp con người trầm tĩnh, dần dần hết vọng tưởng, hết ảo tưởng, không ảnh hưởng đến thực tế, không còn lầm mê về Nhất Tướng mà Tri Kiến Giải Thoát.
Thiền lại rất có lợi vô kể nếu bậc tu đã hiểu biết chân lý Phật pháp. Thiền giúp cho bậc tu trực giác vạn pháp, những hoàn cảnh dù rắc rối đến đâu trong cuộc sống phức tạp đối diện hàng ngày, nó giúp cho tâm trí hiểu biết tự giải quyết thích hợp thỏa đáng mà chúng sinh phải ngạc nhiên. Nó rất thích hợp trong gia đình, trong sở làm việc, trong trường học, trong các ngành, nghề...
Thiền giúp con người trầm tĩnh, dần dần hết vọng tưởng, hết ảo tưởng, không ảnh hưởng đến thực tế, không còn lầm mê về Nhất Tướng mà Tri Kiến Giải Thoát.
-
Đạo Tràng Vạn
An luôn tri ân TAM THẾ PHẬT, thành kính cung thỉnh ba đời Phật chứng minh đầy đủ
phẩm công đức, công năng tu hành của chân tử giữa thời Đông Độ được kết quả Tri
Kiến Giải Thoát. Đức Quảng An đại diện Tam Thế Phật giữa thời Hạ Lai Đồng Độ chỉ
dạy tu hành trọn hết tứ thừa: Tiểu, Đại, Nhất, Tối Thượng Thừa, nên chi:
PHỤNG THỜ: Đức Phật Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai tiêu biểu Hiện Giác.
GIÁO HIỆU: Pháp Tạng Tỳ Kheo A Di Đà Phật tiêu biểu Duy Nhất Tối Thượng.
GIÁO LÝ: Vô Thượng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Do lẽ đó mà bậc tu phải Tin Vâng Kính bậc đã Chánh Giác để chỉ đạo đầy đủ ba yếu tố: Đạo Đức, Giáo Lý, Thiền Tọa đặng tu hành đến Tri Kiến Giải Thoát. Buổi ban đầu phải công phu Thiền Tọa đều đặn, cởi giải ngăn chấp, sửa đố tật, sửa tánh luôn hỷ xả gây tạo đạo đức. Đó chính là phá vô minh. Nghe bậc Thiện Tri Thức đã giác ngộ giảng giáo lý Phật pháp, xem kinh Phật cần đầy đủ ba yếu tố trên, không nặng môn nào cũng không nhẹ môn nào. Đều đặn điều hòa dung thông đầy đủ sẽ được Tri Kiến Giải Thoát, giải thoát rốt ráo.
Tôn giáo PHÁP TẠNG y chỉ y tôn ba đời Phật, về phần giáo lý giảng giải đầy đủ tất cả KINH LUẬT LUẬN cốt khai thông Đạo Pháp, giải chấp phá mê, thân, khẩu, ý hướng thượng tu đến Tri-Kiến-Giải-Thoát.
PHỤNG THỜ: Đức Phật Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai tiêu biểu Hiện Giác.
GIÁO HIỆU: Pháp Tạng Tỳ Kheo A Di Đà Phật tiêu biểu Duy Nhất Tối Thượng.
GIÁO LÝ: Vô Thượng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Do lẽ đó mà bậc tu phải Tin Vâng Kính bậc đã Chánh Giác để chỉ đạo đầy đủ ba yếu tố: Đạo Đức, Giáo Lý, Thiền Tọa đặng tu hành đến Tri Kiến Giải Thoát. Buổi ban đầu phải công phu Thiền Tọa đều đặn, cởi giải ngăn chấp, sửa đố tật, sửa tánh luôn hỷ xả gây tạo đạo đức. Đó chính là phá vô minh. Nghe bậc Thiện Tri Thức đã giác ngộ giảng giáo lý Phật pháp, xem kinh Phật cần đầy đủ ba yếu tố trên, không nặng môn nào cũng không nhẹ môn nào. Đều đặn điều hòa dung thông đầy đủ sẽ được Tri Kiến Giải Thoát, giải thoát rốt ráo.
Tôn giáo PHÁP TẠNG y chỉ y tôn ba đời Phật, về phần giáo lý giảng giải đầy đủ tất cả KINH LUẬT LUẬN cốt khai thông Đạo Pháp, giải chấp phá mê, thân, khẩu, ý hướng thượng tu đến Tri-Kiến-Giải-Thoát.
một số Tôn Giả và Hộ Pháp, hàng Thánh Chúng này sẽ
tuyên dương Chánh Pháp cho đến 5000 năm mới trở lại Mạt Pháp. Mối đạo làm an
lành tốt đẹp cho nhân loại và Tam Thiên đã ổn. Ngài hội tề Chư Bồ Tát, Chư
Thiên Thần, Nhân Thần, Địa Thần, Tứ Bộ Thần, Long Thần Hộ Pháp cùng Thượng Đẳng
Chánh Thần chứng minh nước nhà đổi mới cho dân ấm no và kêu gọi Chư Thiên, Địa
Thần dọn sạch sẽ các thành phố.
Chỉ còn mối Đạo mà Đức Di Lạc quyết đem cho nhân loại thoát khỏi sanh tử luân hồi đem lại yên bình cho dân là chưa được tháo gỡ “Ta chẳng phải vì vua trong một nước
Cũng không làm Bá tước Hầu vương
Quyền uy siêu đẳng bất nhường
Trang nghiêm Quốc độ Phật thường tới lui.”
Ngài vẫn còn Hiện Thể và Chư Long Thần Hộ Pháp vô hình đang ở tại thế gian. Ngài vẫn còn tới lui Ta Bà Thế Giới này chỉ đạo tận độ chúng sanh. Ngài là một người dân như muôn người công dân khác mà không khác vì Ngài đã thật có Quyền Uy Chánh Báo Siêu Đẳng Bất Nhường, có một chứ không hai trong thời Hạ Lai Mạt Pháp này.
Thế giới với muôn ngàn vạn diễn cảnh, vạn lối cách ngăn nhưng Khoa học gia, chuyên gia nghiên cứu mới thấy Ngài đã tạm sắp đặt an bài không để bấm nút sát phạt nhau bằng vũ khí giết nhân loại hàng loạt.
Trung Đạo Tôn không bao giờ thay đổi nó viên dung bất biến tròn sáng. Chỉ Bậc thành tựu Diệu Quả Phật như Đức Thế Tôn Di Lạc mới tận tường chốn Hạ Lai Đồng Độ mà vận chuyển cho nước Việt Nam và nhân loại trên thế giới được AN LÀNH, sống hạnh phúc khó nghĩ bàn.
Ngày nay Việt Nam có mặt vị trí trong cộng đồng các Quốc gia ASEAN và thu hút được đầu tư các nước khác nữa là điểm đáng mừng cho dân tộc chuyển mình.
Chỉ còn mối Đạo mà Đức Di Lạc quyết đem cho nhân loại thoát khỏi sanh tử luân hồi đem lại yên bình cho dân là chưa được tháo gỡ “Ta chẳng phải vì vua trong một nước
Cũng không làm Bá tước Hầu vương
Quyền uy siêu đẳng bất nhường
Trang nghiêm Quốc độ Phật thường tới lui.”
Ngài vẫn còn Hiện Thể và Chư Long Thần Hộ Pháp vô hình đang ở tại thế gian. Ngài vẫn còn tới lui Ta Bà Thế Giới này chỉ đạo tận độ chúng sanh. Ngài là một người dân như muôn người công dân khác mà không khác vì Ngài đã thật có Quyền Uy Chánh Báo Siêu Đẳng Bất Nhường, có một chứ không hai trong thời Hạ Lai Mạt Pháp này.
Thế giới với muôn ngàn vạn diễn cảnh, vạn lối cách ngăn nhưng Khoa học gia, chuyên gia nghiên cứu mới thấy Ngài đã tạm sắp đặt an bài không để bấm nút sát phạt nhau bằng vũ khí giết nhân loại hàng loạt.
Trung Đạo Tôn không bao giờ thay đổi nó viên dung bất biến tròn sáng. Chỉ Bậc thành tựu Diệu Quả Phật như Đức Thế Tôn Di Lạc mới tận tường chốn Hạ Lai Đồng Độ mà vận chuyển cho nước Việt Nam và nhân loại trên thế giới được AN LÀNH, sống hạnh phúc khó nghĩ bàn.
Ngày nay Việt Nam có mặt vị trí trong cộng đồng các Quốc gia ASEAN và thu hút được đầu tư các nước khác nữa là điểm đáng mừng cho dân tộc chuyển mình.
Sau những năm khai Đạo, Đức Di Lạc Tôn Phật đã tuyên ngôn đào tạo
được Hàng Thánh Chúng gồm Hộ Pháp, Tôn Giả, Bồ Tát thay nhau làm Tổ đặng xây dựng
Chánh Pháp đem đến con đường giải quyết sanh tử luân hồi cho nhân sinh.
Tôi nghe như vầy: “36 vị Tổ đây chính thật chỉ có vài vị chính cùng dòng tu giác ngộ, giác ngộ rốt ráo được chứng minh lai trần lên xuống tiếp nối nhiều lần thay nhau làm Tổ chứ không phải chân tử nào ngoài dòng sẽ vào làm Tổ được.”
Nguyện cúng dường báo ân Đức Thế Tôn Di Lạc cùng Chư Phật mười phương đặng tiếp tục hồi hướng quyết tâm cầu Chánh Giác.
Có một số Tín chúng phát nguyện viết thư trình, Ngài Ấn ký nên những vị này lầm tưởng mình là Bồ Tát... Điều này không đúng. Phải mất nhiều kiếp nữa Hạnh Nguyện đến khi được Vị Phật Hiện Thể chứng minh cho mới đúng. Ngài còn bảo rằng tự Ngài thấy đến trình độ tu chứng cấp nào Ngài ban hành lệnh ký và đóng dấu Giáo Chủ chứng minh mới đúng là Tôn Giả, là Bồ Tát. Phật Vương chính là Đức Nhựt Nguyệt Tinh Tú Quảng An Như Lai Vương Phật có đầy đủ ba thân Viên Minh suốt thấu hạnh nguyện Chư Tổ hàng Bồ Tát, Chư Tôn Giả cấp A La Hán, Bích Chi, Duyên Giác, Thinh Văn cùng hàng Hộ Pháp. Ngài sẽ minh chứng sự hạnh nguyện này bình đẳng từng Vị một không hề có một chút sai chạy. Hàng Bồ Tát Giác Tướng nhận được rõ ràng Chư Phật mười phương nên ý thức hạnh nguyện thấu đạt Như Lai mới Trực Giác sự minh chứng của Đức Phật Vương. Như Lai không có Tướng, Bậc Giác Tướng kiến diện Như Lai, nhập thể Như Lai là một vấn đề mà hàng Tôn Giả chưa tỏ thấu đầy đủ được nên phải Chí Dũng đặng hạnh nguyện được cận Thể của Chư Phật.
Tôi nghe như vầy: “36 vị Tổ đây chính thật chỉ có vài vị chính cùng dòng tu giác ngộ, giác ngộ rốt ráo được chứng minh lai trần lên xuống tiếp nối nhiều lần thay nhau làm Tổ chứ không phải chân tử nào ngoài dòng sẽ vào làm Tổ được.”
Nguyện cúng dường báo ân Đức Thế Tôn Di Lạc cùng Chư Phật mười phương đặng tiếp tục hồi hướng quyết tâm cầu Chánh Giác.
Có một số Tín chúng phát nguyện viết thư trình, Ngài Ấn ký nên những vị này lầm tưởng mình là Bồ Tát... Điều này không đúng. Phải mất nhiều kiếp nữa Hạnh Nguyện đến khi được Vị Phật Hiện Thể chứng minh cho mới đúng. Ngài còn bảo rằng tự Ngài thấy đến trình độ tu chứng cấp nào Ngài ban hành lệnh ký và đóng dấu Giáo Chủ chứng minh mới đúng là Tôn Giả, là Bồ Tát. Phật Vương chính là Đức Nhựt Nguyệt Tinh Tú Quảng An Như Lai Vương Phật có đầy đủ ba thân Viên Minh suốt thấu hạnh nguyện Chư Tổ hàng Bồ Tát, Chư Tôn Giả cấp A La Hán, Bích Chi, Duyên Giác, Thinh Văn cùng hàng Hộ Pháp. Ngài sẽ minh chứng sự hạnh nguyện này bình đẳng từng Vị một không hề có một chút sai chạy. Hàng Bồ Tát Giác Tướng nhận được rõ ràng Chư Phật mười phương nên ý thức hạnh nguyện thấu đạt Như Lai mới Trực Giác sự minh chứng của Đức Phật Vương. Như Lai không có Tướng, Bậc Giác Tướng kiến diện Như Lai, nhập thể Như Lai là một vấn đề mà hàng Tôn Giả chưa tỏ thấu đầy đủ được nên phải Chí Dũng đặng hạnh nguyện được cận Thể của Chư Phật.
Đức Thế Tôn Di Lạc
thọ ký tại Ta Ba Thế Giới Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài Địa Tạng
Vương Bồ Tát chủ trì Lục Đạo nương sức oai thần của Như Lai cứu vớt tất cả
chúng sanh bị nghiệp báo phải thọ cửa Địa Ngục.
Đến thời Hạ Lai Đức Di Lạc Tôn Vương Phật Hiện Thể, Ngài Địa Tạng đã mãn nhiệm kỳ, nay Bồ Tát Mục Kiền Liên đảm nhiệm cứu vớt chúng sanh thọ báo Địa ngục môn được thoát sinh. Lúc bấy giờ có Tôn Giả Pháp Thao và một số Hộ Pháp cùng nghe. Bồ Tát vì chúng sinh mắc vào Địa Ngục nên tùy lúc thị hiện vào Địa Ngục, chủ yếu chỉ dạy cho chúng sinh giải thoát khỏi Địa Ngục chớ Bồ Tát không có ở trong Địa Ngục cũng không ở trong ba cõi sáu đường. Vì Bồ Tát không lấy một cõi nào là cõi của Bồ Tát, do đó không nên đem Bồ Tát ra đứng giữa trời nắng ngoài nghĩa địa.
Đến thời Hạ Lai Đức Di Lạc Tôn Vương Phật Hiện Thể, Ngài Địa Tạng đã mãn nhiệm kỳ, nay Bồ Tát Mục Kiền Liên đảm nhiệm cứu vớt chúng sanh thọ báo Địa ngục môn được thoát sinh. Lúc bấy giờ có Tôn Giả Pháp Thao và một số Hộ Pháp cùng nghe. Bồ Tát vì chúng sinh mắc vào Địa Ngục nên tùy lúc thị hiện vào Địa Ngục, chủ yếu chỉ dạy cho chúng sinh giải thoát khỏi Địa Ngục chớ Bồ Tát không có ở trong Địa Ngục cũng không ở trong ba cõi sáu đường. Vì Bồ Tát không lấy một cõi nào là cõi của Bồ Tát, do đó không nên đem Bồ Tát ra đứng giữa trời nắng ngoài nghĩa địa.
Nam Mô Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Di Lạc VươngTôn Phật
Thật hy hữu thay chốn Hạ Lai Đồng Độ giữa thời đại Khoa học này mà từ năm 1969- nay tại Tỉnh Bến Tre ở miền Nam nước Việt Nam Đức Di Lạc Vương Tôn Phật đã gần hoàn tất tận độ nhân sanh và tứ loài về ĐỜI cũng như ĐẠO. Với lòng Đại Bi, Đại Chí, Đại Dũng Ngài đã tận dụng Phật Lực vượt qua những tử nạn tai khiên và đã thành tựu cứu an nhân loài tránh Đại Thế Chiến Thứ Ba tiêu diệt sự sống trên quả địa cầu.
Ngài gỡ rối cho quốc gia đổi mới, dân chúng sống dễ thở hơn. Ngài còn thệ nguyện:
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Di Lạc VươngTôn Phật
Thật hy hữu thay chốn Hạ Lai Đồng Độ giữa thời đại Khoa học này mà từ năm 1969- nay tại Tỉnh Bến Tre ở miền Nam nước Việt Nam Đức Di Lạc Vương Tôn Phật đã gần hoàn tất tận độ nhân sanh và tứ loài về ĐỜI cũng như ĐẠO. Với lòng Đại Bi, Đại Chí, Đại Dũng Ngài đã tận dụng Phật Lực vượt qua những tử nạn tai khiên và đã thành tựu cứu an nhân loài tránh Đại Thế Chiến Thứ Ba tiêu diệt sự sống trên quả địa cầu.
Ngài gỡ rối cho quốc gia đổi mới, dân chúng sống dễ thở hơn. Ngài còn thệ nguyện:
“Dù nhân sinh có bạc đãi Ta, Ta vẫn đưa con người Giác
Ngộ.”
Ngài đã tận thành Thế Tôn Hạnh cùng đầy đủ: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật.
- Chúng con thành kính nguyện cầu Đức Thế Tôn Di Lạc cùng Như Lai Phật Mười Phương minh chứng.
- Chúng con nguyện cầu Nhân Sinh cùng các Cõi Chí Dũng phát tâm tu cầu Tri Kiến Giải Thoát, Giải thoát rốt ráo để thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Trong quyển Đức Di Lạc và Long hoa này, tôi không đủ phương tiện để diễn đạt hết những gì mà ĐỨC THẾ TÔN DI LẠC đã khai thị trong suốt lộ trình Chỉnh Trang Phật Đạo, Tận Độ Hạ Lai của Ngài, Chỉ hóa giải tự mãn lý chướng, nghi chấp để diện kiến may ra mới có thể thỏa mãn được phần nào về Chân Nguyên, Tâm Ấn Như Lai Thiền mà thôi.
Nguyện Hồi Hướng Công Đức tu hành TRI KIẾN GIẢI THOÁT cho tất cả Chúng Sanh Cùng Thánh Chúng được sống trong Ân Đức TỪ THỊ của Phật Nhãn Phổ Chiếu giữa thời ĐƯƠNG SANH HẠ LAI.
Ngài đã tận thành Thế Tôn Hạnh cùng đầy đủ: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật.
- Chúng con thành kính nguyện cầu Đức Thế Tôn Di Lạc cùng Như Lai Phật Mười Phương minh chứng.
- Chúng con nguyện cầu Nhân Sinh cùng các Cõi Chí Dũng phát tâm tu cầu Tri Kiến Giải Thoát, Giải thoát rốt ráo để thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Trong quyển Đức Di Lạc và Long hoa này, tôi không đủ phương tiện để diễn đạt hết những gì mà ĐỨC THẾ TÔN DI LẠC đã khai thị trong suốt lộ trình Chỉnh Trang Phật Đạo, Tận Độ Hạ Lai của Ngài, Chỉ hóa giải tự mãn lý chướng, nghi chấp để diện kiến may ra mới có thể thỏa mãn được phần nào về Chân Nguyên, Tâm Ấn Như Lai Thiền mà thôi.
Nguyện Hồi Hướng Công Đức tu hành TRI KIẾN GIẢI THOÁT cho tất cả Chúng Sanh Cùng Thánh Chúng được sống trong Ân Đức TỪ THỊ của Phật Nhãn Phổ Chiếu giữa thời ĐƯƠNG SANH HẠ LAI.
“Hỡi Người Chân tử Phật Đà
Nghìn năm Pháp Tạng trổ hoa một lần.”
Nghìn năm Pháp Tạng trổ hoa một lần.”
NAM MÔ PHẬT HOÀNG TRẦN AN DI LẠC VƯƠNG TÔN PHẬT
Cho nên qua lần nói pháp lần nầy, Thầy
cũng mong các Cao Tăng và hiền sỉ
từ
hữu
hình cho đến
vô hình, muốn
tu tập
thật
sự,
hãy quy tụ
lại,
cùng tu, cùng hành cho việc
khai Đạo
Pháp cho thời
hạ
ngươn chuyển sang thượng ngươn
được
tốt
đẹp
hơn. ( khai mở núi )
KHAI Đạo Cửu Long Kim Pháp mừng
ĐẠO khai Đất Việt Nước thịnh hưng
PHÁP mới hoằng khai mười phương
chứng
MỚI Đạo Pháp Khai thế gian mừng./.
Nam Mô A Di Đà Phật
giáng lâm Chứng Minh
XÃ HỘI KHOA HỌC PHẬT
GIÁO DỤC
Đạo Pháp – Dân Tộc – An
Lạc
Vương Quốc Vạn An
Liên Tông Cửu Long Kim
Pháp
Đạo Giáo Thiên Đồng
Phật Hoàng Trần An
Gia Tộc Vua Trần
Tác giả: MẬT ẤN TỊNH THỌ
( Geshe Rinpoche: Thích
Quảng An )